GIỚI THIỆU
TIN TỨC - SỰ KIỆN
THỐNG KÊ TRUY CẬP
Số người đang online: 88
Số lượt truy cập: 13993498
QUẢNG CÁO
KỈ NIỆM 109 NĂM NGÀY BÁC HỒ RA ĐI TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC (05/6/1911 - 05/6/2020) 6/7/2020 7:15:46 AM
Năm 2020 là năm diễn ra Đại hội Đảng các cấp nhiệm kỳ 2020 - 2025 tiến tới Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Đây là sự kiện chính trị có ý nghĩa trọng đại, có ý nghĩa định hướng tương lai, cổ vũ, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững. Tháng Sáu năm nay, cả nước ta lại hướng về bến cảng Nhà Rồng, nơi mà cách đây 109 năm, Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước. Để rồi từ đây, mở ra con đường giải phóng dân tộc, mở ra trang sử mới mang tên thời đại Hồ Chí Minh. Chính vì vậy, việc ôn lại truyền thống, ý nghĩa lịch sử của sự kiện ngày 05/6/1911 mang một ý nghĩa vô cùng to lớn, góp phần thực hiện tốt Chỉ thị số 173-CT/TW, ngày 29/9/1969 Bộ Chính trị về đợt sinh hoạt chính trị "Học tập và làm theo Di chúc của Hồ Chủ tịch".
     2706dt01.jpg

Bến cảng Nhà Rồng hôm nay


1. Từ bến cảng Nhà Rồng

Tháng 5 năm 1909, Nguyễn Tất Thành theo thân phụ mình là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc từ Huế vào huyện Bình Khê thuộc tỉnh Bình Định. Tháng 9 năm 1909, Nguyễn Tất Thành được cha gửi đến Quy Nhơn để học thêm tiếng Pháp với thầy giáo Phạm Ngọc Thọ dạy tại Trường Tiểu học Pháp - bản xứ Quy Nhơn theo chương trình lớp cao đẳng.

Từ nửa sau tháng 9 năm 1910 đến trước tháng 02 năm 1911, Nguyễn Tất Thành dạy học ở trường Dục Thanh thuộc tỉnh Phan Thiết (nay là tỉnh Bình Thuận).

Cuối năm 1910, Nguyễn Tất Thành rời trường Dục Thanh vào Sài Gòn tiếp tục cuộc hành trình tìm đường cứu nước. Ngày đó phương tiện đi lại còn rất thô sơ, xe lửa mới chỉ chạy loanh quanh Sài Gòn từ Chợ Cũ đi Tân Định và Chợ Cũ đi Chợ Lớn... Cả Sài Gòn lúc bấy giờ chỉ có chừng 5- 7 chiếc ô tô, vì vậy, 200 cây số từ Phan Thiết vào Sài Gòn, Bác vẫn phải đi bằng thuyền buồm.

Trưa 02/6/2011, chiếc tàu Amiral Latouche Tréville của hãng Năm Sao từ Hải Phòng cập cảng Sài Gòn. Bác xuống tàu và gặp viên thuyền trưởng. Nhìn thân hình mảnh khảnh của Bác, thuyền trưởng hỏi:

- Anh có thể làm được việc gì?

- Tôi có thể làm bất cứ công việc gì - Bác đáp với lòng tự tin.

Nhìn thấy nét cương nghị và thông minh của Bác, viên thuyền trưởng mỉm cười (sau này biết tên ông ta là Lui E-du-a Mai-sen, quê ở miền Bắc nước Pháp):

- Được, tôi đồng ý nhận anh làm phụ bếp, sáng mai anh xuống đây nhận việc. Anh tên là gì?

Lúng túng một chút, Bác đáp:

- Văn Ba!

Trên tàu khi đó đã có một thủy thủ làm việc từ trước có tên là Nguyễn Văn Ba.

Ngày 03/6/1911, Bác chính thức xuống tàu làm phụ bếp. Đây là một trong những tàu lớn hồi đó vừa chở hàng, vừa chở khách. Theo hồ sơ còn lưu ở Bảo tàng hàng hải bên Pháp, tàu dài 124,1m, rộng 15,2m, chạy máy hơi nước, 2.800 mã lực, với tốc độ 13 hải lý/giờ, trọng tải 5.572 tấn và có đủ nhiên liệu để chạy một mạch 12.000 hải lý. Trong hồ sơ lưu còn có sổ lương và sổ thủy thủ. Lương tháng 6/1911 của Bác là 50 phơ-răng Pháp, trong khi những người bồi Pháp làm việc rất nhàn nhã lãnh lương gấp 3 lần lương của Bác.

Trưa 05/6/1911, con tàu Amiral Latouche Tréville đã rời bến sông Sài Gòn với 72 thủy thủ trên tàu. Sài Gòn hôm đó đã thay mặt đất nước tiễn Bác. Trong chuyến hành trình đầu tiên đó, Bác đến Singapore, Cô-lôm-bô, Po Xa-ít, rồi Đa-răng, Mác-xây và ngày 15-7, Bác đến Lơ Ha-vrơ, cảng chính ở miền Bắc nước Pháp.

Bác ra đi giữa mùa bão tố tháng 6 với một trái tim vĩ đại mang trọn tình yêu quê hương đất nước. Từ buổi trưa đó, Bác bước vào cuộc đời của một người lao động cực khổ. Trong tác phẩm “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch”, có kể lại lúc Bác Hồ làm thủy thủ trên tàu như sau: Mỗi ngày anh Ba phải làm từ 4 giờ sáng, quét dọn sạch sẽ nhà bếp lớn trên tàu, rồi đốt lửa trong các lò. Khi thì đi khuân than, rồi xuống hầm lấy rau, thịt, cá, nước đá... Công việc khá nặng nhọc, lại gặp nhiệt độ luôn thay đổi vì dưới bếp rất nóng, còn trong hầm thì rất lạnh. Đôi khi vừa phải vác một bao nặng vừa leo lên những bậc thang, trong khi tàu chòng chành lắc lư rất nguy hiểm.

Xong công việc ấy, phải dọn cho chủ bếp Pháp ăn. Sau đấy, lặt rau, rửa nồi, chảo và đun lò lại. Công việc kéo dài suốt ngày.

Nhà bếp lo ăn cho cả 700- 800 người cả nhân viên và hành khách. Có nhiều cái chảo bằng đồng lớn và nặng quá, đến nỗi anh Ba phải kéo lê trên sàn. Với những cái nồi cao quá, anh phải leo lên ghế để chùi nồi. Luôn luôn nghe tiếng:

- Ba, đem nước đây!

- Ba, dọn chảo đi!

- Ba, thêm than vào!

Suốt ngày anh Ba người đẫm hơi nước và mồ hôi, mình đầy bụi than. Người ta thấy anh Ba phải dùng hết tinh thần và sức lực để làm cho xong mọi việc. Và hơn nữa, anh còn phải gọt cho xong đống củ cải và khoai tây... Mỗi ngày, đến 9 giờ tối, công việc mới xong. Anh Ba mệt lử. Nhưng trong khi mọi người nghỉ (hoặc đánh bài, uống rượu), anh Ba học hay viết đến khuya...

Một lần dọc đường, anh Ba suýt chết đuối. Bể nổi sóng. Sóng cao như những quả núi chồm lên, đổ xuống. Hầu hết mọi người say sóng. Như mọi ngày, anh Ba lên bếp lại xuống hầm. Không thể vác những rổ rau lên vai vì tàu chòng chành dữ quá, anh phải buộc rổ rau vào dây sắt để kéo đi. Chuyến thứ 2, một ngọn sóng lớn thình lình phủ lên sàn tàu và cuốn xuống bể mọi vật trên sàn tàu, cả những rổ rau và anh Ba nữa. May là anh bị đẩy vào giữa cột buồm và dây xích, nhờ vậy mà thoát chết...


2706dt02.jpg

Anh Ba làm phụ bếp trên con tàu Amiral Latouche Tréville


2. Tiếp thu học thuyết Mác - Lê nin

Từ nǎm 1911 đến nǎm 1920, Nguyn Tt Thành đã đến nhiu nướ bn châu lục là châu Âu, châu Phi, châu Mỹ, châu Á, nghiên cứu và học hỏi để tìm đường cứu nước. Nǎm 1919, các nước đế quốc thắng trận họp Hội nghị Véc-xây (Versailles) để phân chia thị trường thế giới. Nhân dịp này, Nguyễn Ái Quốc (tên mới của Nguyễn Tất Thành)  thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, đã gửi tới Hội nghị Véc-xây bản yêu sách “tám điểm” đòi quyền tự do cho nhân dân Việt Nam.

Tháng 7 nǎm 1920 qua báo Nhâđạo (L'Humanité- Pháp), NguyÁi Quđọđược tác phLun cương v vđề dân tc và vđề thuđịa ca V.I. Lê-nin. Sau này nhớ lại với niềm vui sướng khôn tả, Hồ Chí Minh viết: "Luận cương của V.I. Lê-nin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: "Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta.

Nguyễn Ái Quốc là đại biểu duy nhất của nhân dân Đông Dương tham dự Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp tại thành phố Tua (Tours). Tại Đại hội này, Nguyễn Ái Quốc đã bảo vệ chủ nghĩa Mác, chống lại những kẻ cơ hội, tố cáo tội ác của thực dân Pháp ở Đông Dương, kêu gọi giai cấp công nhân và nhân dân Pháp ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam và các nước thuộc địa khác. Tại Đại hội này, Người đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) và trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.

Trong quá trình tìm đường cứu nước Nguyễn Ái Quốc đã đi qua bốn châu lục, khảo sát nhiều nước thuộc địa và những nước tư bản tiên tiến điển hình thời bấy giờ, đã tiếp xúc nhiều người, nhiều nhà tư tưởng nhưng hầu hết chưa mang lại lời giải cho cách mạng Việt Nam, chỉ có Lê-nin và Quốc tế III là ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc, giải phóng thuộc địa. Vì vậy trong tác phẩm “Đường kách mệnh”, Người chỉ rõ: bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác - Lê nin.

Người đã tham gia nhiều hoạt động thực tiễn và lý luận rất sôi nổi như: tham gia Ban Nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp, tham gia sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa, viết bài và tham gia xuất bản báo (tờ Le Paria - Người cùng khổ), viết bài tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam và các nước thuộc địa.

Nguyễn Ái Quốc từ người yêu nước trở thành người cộng sản và đã dứt khoát lựa chọn con đường đi theo chủ nghĩa xã hội cho cách mạng Việt Nam, theo quỹ đạo của cách mạng vô sản.

3. Ý nghĩa của việc tìm ra con đường cứu nước

Năm 1920, khi Hồ Chí Minh bắt gặp chủ nghĩa Mác - Lênin thì cùng thời điểm đó, Việt Nam vẫn thuộc quyền thống trị của thực dân Pháp, nhiều cuộc khởi nghĩa, nổi dậy đã diễn ra nhưng thất bại. Nhiều xu hướng cải cách, đổi mới được khởi xướng nhưng cũng chưa đạt kết quả khả quan. Trong thời gian này, có nhiều lý thuyết, nhiều chủ nghĩa, nhiều con đường và phương pháp để đấu tranh, thời điểm này cũng có nhiều người Việt Nam đi ra nước ngoài theo nhiều diện khác nhau.

Từ việc tìm hiểu, nghiên cứu những bài học lịch sử và khảo nghiệm thực tiễn, Nguyễn Tất Thành thấy rằng mọi cách tiến hành ở trong nước, hay đi ra nước ngoài, sang Trung Quốc hay Nhật Bản (phong trào Đông Du) đều không đạt kết quả tốt. Vì muốn: Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu.

Sự kiện Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước vào ngày 05/6/1911 có ý nghĩa vô cùng to lớn. Trước hết thể hiện sự thính nhạy về thực tiễn với sự lựa chọn hành trình xuất phát từ thành phố Sài Gòn. Đây là bước ngoặt lớn, việc Hồ Chí Minh chọn Sài Gòn sau này được lý giải là do lúc bấy giờ Sài Gòn là cửa ngõ của xứ Nam Kỳ có những công ty tàu biển lớn chạy đường Pháp - Đông Dương rất thuận lợi cho việc sang Pháp. Đây cũng là nơi tự do hơn các xứ khác ở Việt Nam trong việc đi lại, tìm kiếm công ăn việc làm, dễ kiếm cơ hội xuất ngoại. Sài Gòn, nơi Bác dừng chân trong thời gian ngắn nhất nhưng lại có vai trò quyết định đối với sự lựa chọn con đường cứu nước do được tiếp xúc với nhiều luồng thông tin đa dạng làm cho chủ nghĩa yêu nước của con người Việt Nam phát triển. Ở độ tuổi 21 - người thanh niên xứ Nghệ vượt qua những khó khăn về phương tiện và khoảng cách địa lý để nhìn ra và chọn thành điểm xuất phát để đi nước ngoài đó quả là một sự thấu suốt kinh ngạc.  

Thứ hai, cuộc hành trình tìm đường cứu nước của Bác Hồ đã tạo nên những bước ngoặt lớn của cách mạng Việt Nam, làm thay đổi hướng phát triển lịch sử và thay đổi số phận của cả dân tộc Việt Nam trong thế kỷ 20.

Thứ ba, việc lựa chọn đi theo con đường xã hội chủ nghĩa mà Lênin đã mở ra từ Cách mạng tháng Mười năm 1917 đã đem lại những thành tựu vĩ đại trong thực tế cho nước ta như: hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, chiến thắng Điện Biên Phủ 1954, chiến thắng 30/4/1975 giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, tiến hành cách mạng XHCN với sự nghiệp đổi mới 34 năm qua thành công, đem lại những thành tựu trên nhiều lĩnh vực đời sống xã hội...


2706dt03.jpg

Sài Gòn hôm nay


Như vậy là từ một người yêu nước nhiệt tình cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường cứu nước và dấn thân vào cuộc đấu tranh để thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc. Sáu năm hoạt động ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc từ người đi tìm đường trở thành người dẫn đường, là một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, sau này sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào mùa xuân năm 1930. Năm 1941, sau vừa đúng 30 năm xa Tổ quốc, Bác Hồ của chúng ta đã trở về Tổ quốc lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua bao thác ghềnh và giành được độc lập vào mùa thu năm 1945.

Dù đã đi xa, nhưng người chiến sỹ cộng sản kiên trung và dũng cảm Nguyễn Ái Quốc đã để lại cho chúng ta một hình mẫu trong việc nhanh nhạy với tình hình thời cuộc, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện nước ta, từ đó định hướng cho sự nghiệp đổi mới hiện nay ở nước ta, hướng vào mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh mà Đảng ta đang phấn đấu xây dựng.

TÌM KIẾM


Hỗ trợ trực tuyến
™Hà Thị Thủy™
™Hà Thị Thủy™
Hiệu trưởng
Hoàng Thị Tươi
Hoàng Thị Tươi
Phó Hiệu trưởng
ĐĂNG NHẬP

Tên đăng nhập
Mật khẩu
HÌNH ẢNH
LIÊN KẾT WEBSITE


TRƯỜNG TIỂU HỌC THANH THỦY, HUYỆN LỆ THỦY, TỈNH QUẢNG BÌNH
Điện thoại: 0232.3882871 - Email: th_thanhthuy@lethuy.edu.vn
Developed by Phạm Xuân Cường. Tel: 0912.037911 - Mail: cuonggiaoduc@gmail.com