Truyện cổ tích cho bé: Thầy bói xem voi
Được ngày rảnh rỗi, không có khách nào vào xem bói và bói bài tây cả nên năm ông thầy bói mù cùng nhau ngồi tán phét.
Ông nào cũng chưa từng một lần nhìn thấy con voi nên không biết hình thù nó ra sao. Bỗng nghe dân tình kháo nhau có người đang dắt voi đi ngang qua làng. Năm ông thầy bói chung tiền vào đưa cho người quản voi bảo họ cho voi dừng lại để xem.
Truyện ngụ ngôn: Thầy bói xem voi
Ông sờ vòi, ông sờ ngà, ông thì sờ chân, ông thì sờ tai còn ông thì sờ đuôi. Sau khi sờ voi kĩ lưỡng thì 5 ông thầy lần lượt phán.
Thầy sờ vòi của voi thì phán:
– Tôi cứ tưởng con voi nó thế nào chứ hóa ra nó cũng sun sun như con đỉa thôi
Thầy sờ ngà voi thì lại phán:
– Tôi thấy nó đâu có như con đỉa, nó dài dài cứng cứng như cái đòn càn
Tiếp đến thầy sờ tai thì phán:
– Không phải, nó bè bè như là cái quạt thóc
Thầy sờ chân voi phản ứng ngay:
– Các ông đều sai hết, nó sừng sững như là cái cột đình vậy
Cuối cùng thầy sờ đuôi phán:
– Bốn ông chả ai nói đúng cả, tôi thấy nó tua tủa như là cái chổi xể cùn
Năm ông thầy mỗi ông một ý, không ông nào chịu nhường ông nào cả nên nhảy vào cãi lộn rồi xô xát đến mức sứt đầu mẻ trán.

Truyện cổ tích cho bé: Đẽo cày giữa đường
Câu chuyện dạy cho ta bài học "Làm việc gì cũng vậy, mình phải có chính kiến của mình và kiên trì với một con đường đã chọn".
Chuyện kể rằng có một bác nông dân rất nghèo, cả đời sống bằng nghề đồng áng, bác muốn làm một cái cày thật tốt để làm công việc đồng áng năng suất và đỡ vất vả hơn.
Một hôm, bác rất vui vì đã xin được một cây gỗ tốt nhưng bác chưa làm cái cày bao giờ, bác bèn mang khúc gỗ ra ven đường ngồi đẽo và hỏi ý kiến mọi người.
Truyện cổ tích: Đẽo cày giữa đường
Bác đẽo được một lúc thì một người đi qua chê:
– Bác đẽo thế không phải rồi, bác đẽo to quá.
Bác nông dân nghe thấy có lý bèn làm theo. Bác làm được một lúc lại có một người đi qua bảo:
– Bác đẽo thế này không cày được đâu, cái đầu cày bác làm to quá….
Bác nông dân nghe có lý hơn, bác lại chỉnh sửa theo lời khuyên, bác đẽo được một lúc lại một người đi qua nói:
– Bác đẽo thế không ổn rồi, cái cày bác làm dài quá không thuận tay.
Bác nông dân nghe lại có lý hơn, lại chỉnh sửa theo.
Và cuối cùng, hết ngày hôm đấy bác nông dân chỉ còn một khúc gỗ nhỏ, bác không còn cơ hội để đẽo cái cày theo ý mình nữa, cây gỗ quý đã thành một đống củi vụn.
Bác buồn lắm nhưng cuối cùng bác đã hiểu: “Làm việc gì cũng vậy, mình phải có chính kiến của mình và kiên trì với một con đường đã chọn.”

Truyện cổ tích cô bé quàng khăn đỏ
Ngày xửa, ngày xưa, có một cô bé thường hay quàng chiếc khăn màu đỏ, vì thế, mọi người đều gọi cô là cô bé quàng khăn đỏ.
Một hôm, mẹ cô bảo cô mang bánh sang để biếu bà ngoại. Trước khi đi, mẹ cô có dặn rằng:
– Con đi thì nhớ đi đường thẳng, đừng đi đường vòng qua rừng mà chó sói ăn thịt con đấy. Trên đường đi, cô thấy đường vòng qua rừng có rất nhiều hoa, nhiều bướm, vì không nghe lời mẹ dặn nên cô tung tăng đi theo đường đó. Đi được một quãng thì gặp chú Sóc, Sóc nhắc:
– Cô bé quàng khăn đỏ ơi, lúc nãy tôi có nghe mẹ cô dặn đi đường thẳng, đừng đi đường vòng cơ mà. Sao cô lại đi đường này?
Cô bé không trả lời Sóc. Cô vẫn cứ đi theo đường vòng qua rừng. Vừa đi, cô vừa hái hoa, bắt bướm. Khi vào đến cửa rừng thì cô gặp chó sói. Con chó sói rất to đến trước mặt cô. Nó cất giọng ồm ồm rồi hỏi:
– Này, cô bé đi đâu thế?
Nghe chó sói hỏi nên cô bé quàng khăn đỏ sợ lắm, nhưng cũng đành bạo dạn trả lời:
– Tôi đi sang nhà bà ngoại tôi.
Nghe cô bé nói đi sang bà ngoại, chó sói đang nghĩ bụng: À, thì ra nó lại còn có bà ngoại nữa, thế thì mình phải ăn thịt cả hai bà cháu. Nghĩ vậy nên chó sói lại hỏi:
– Nhà bà ngoại của cô ở đâu?
– Ở bên kia khu rừng. Cái nhà có ống khói đấy, cứ đẩy cửa là sẽ vào được ngay.
Nghe xong, chó sói bỏ cô bé quàng khăn đỏ ở đấy rồi chạy một mạch đến nhà bà ngoại của cô. Nó đẩy cửa vào vồ lấy bà cụ rồi nuốt chửng ngay vào bụng. Xong xuôi, nó lên giường nằm đắp chăn giả là bà ngoại ốm.
Lúc cô bé quàng khăn đỏ đến tới nơi, cô thấy chó sói đắp chăn nằm trên giường, cô tưởng “bà ngoại” bị ốm thật, cô hỏi:
– Bà ơi! Bà ốm đã lâu chưa?
Sói không đáp giả vờ rên hừ… hừ…
– Bà ơi, mẹ cháu bảo mang bánh sang biếu bà.
– Thế à, thế thì bà cám ơn cháu và mẹ cháu. Cháu bà ngoan quá. Cháu lại đây với bà.
Cô bé quàng khăn đỏ chạy ngay đến cạnh giường, nhưng cô vô cùng ngạc nhiên lùi lại hỏi:
– Bà ơi! Sao hôm nay tai bà dài thế?
– Tai bà dài để bà nghe cháu nói được rõ hơn. Chó sói đáp
– Thế còn mắt bà, sao hôm nay mắt bà to thế?
– Mắt bà to để bà nhìn cháu được rõ hơn.
Chưa tin, cô bé quàng khăn đỏ lại hỏi:
– Thế còn mồm bà, sao hôm nay mồm bà to thế?
– Mồm bà to để bà ăn thịt cháu đấy.
Sói vừa nói xong liền nhảy ra khỏi giường, nuốt chửng em bé Khăn Đỏ đáng thương.
Sói no nê lại nằm xuống giường ngủ ngáy o o. May sao, lúc đó có bác thợ săn đi ngang qua thấy thế. Bác giơ súng lên định bắn. Nhưng bác chợt nghĩ ra là chắc sói đã ăn thịt bà lão, và tuy vậy vẫn còn có cơ hội cứu bà. Bác nghĩ không nên bắn mà nên lấy kéo rạch bụng con sói đang ngủ ra. Vừa rạch được vài mũi thì thấy chiếc khăn quàng đỏ chóe, rạch được vài mũi nữa thì cô bé nhảy ra kêu:
– Trời ơi! Cháu sợ quá! Trong bụng sói, tối đen như mực. Bà lão cũng còn sống chui ra và thở hổn hển. Khăn đỏ vội đi nhặt đá to nhét đầy bụng sói. Sói tỉnh giấc muốn nhảy lên, nhưng đá nặng quá, nó ngã khuỵu xuống, lăn ra chết.
Từ dạo ấy, cô bé quàng khăn đỏ không bao giờ dám làm sai lời mẹ dặn.

Truyện cổ tích sọ dừa
Ngày xưa, có hai vợ chồng một lão nông nghèo đi ở cho nhà một phú ông. Họ hiền lành và chăm chỉ nhưng đã ngoài năm mươi tuổi mà chưa có lấy một mụn con.
Một hôm, người vợ vào rừng lấy củi. Trời lúc đó nắng to, khát nước quá, thấy cái sọ dừa bên gốc cây to đựng đầy nước mưa, bà bèn bưng lên uống cho đỡ khát. Thế rồi, về đến nhà, bà có mang.
Ít lâu sau thì người chồng mất. Bà sinh ra một đứa con không hề có chân tay, mình mẩy, cứ tròn lông lốc như một quả dừa. Bà buồn bã, toan vứt nó đi thì đứa bé lên tiếng liền bảo.
– Mẹ ơi! Con là người đấy! Mẹ đừng vứt con mà tội nghiệp. Bà lão thương tình để lại nuôi rồi đặt tên cho cậu là Sọ Dừa.
Lớn lên, Sọ Dừa vẫn cứ thế, cứ lăn lông lốc chẳng làm được việc gì giúp mẹ. Bà mẹ phiền lòng lắm. Sọ Dừa biết vậy bèn xin mẹ đến chăn bò cho nhà phú ông.
Nghe nói đến Sọ Dừa, phú ông lại ngần ngại. Nhưng nghĩ: nuôi nó thì ít tốn cơm, công sá lại chẳng đáng là bao nhiêu nên phú ông đã đồng ý. Chẳng thể ngờ cậu lại chăn bò rất giỏi. Ngày ngày, cậu lăn sau đàn bò ra đồng, tối đến lại lăn sau đàn bò lùa về nhà. Cả đàn bò, con nào con nấy cứ no căng. Phú ông lấy làm mừng lắm!
Vào ngày mùa, tôi tớ ra đồng làm hết cả, phú ông bèn sai ba cô con gái thay phiên nhau đem cơm cho Sọ Dừa. Trong những lần như thế, hai cô chị kiêu kì, ác nghiệt thường hắt hủi Sọ Dừa, chỉ có cô em vốn tính thương người nên đối đãi với Sọ Dừa rất tử tế.
Một hôm đến phiên cô út mang cơm đến cho Sọ Dừa. Mới đến chân núi, cô bỗng nghe thấy tiếng sáo véo von. Rón rén bước lên cô đã nhìn thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đang ngồi trên chiếc võng đào thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Thế nhưng vừa mới đứng lên, tất cả đã biến mất tăm, chỉ thấy Sọ Dừa nằm lăn lóc ở đấy. Nhiều lần nhìn thấy như vậy, cô út biết Sọ Dừa không phải người thường, bèn đem lòng yêu quý.
Đến cuối mùa ở thuê, Sọ Dừa về nhà giục mẹ đến hỏi con gái phú ông về làm vợ.
Bà mẹ đang buồn phiền cũng ngạc nhiên, phì cười mà nói:
– Mày thì có ma nó lấy! Mình mẩy chân tay chẳng có mà lại đòi lấy vợ.
Nhưng Sọ Dừa thiết tha, nằn nì, thúc giục, cuối cùng bà cũng chiều lòng con phải đánh bạo kiếm một buồng cau đến nói với phú ông.
Thấy mẹ Sọ Dừa mang cau đến dạm, phú ông cười mỉa mai:
– Muốn hỏi con gái ta, hãy về sắm đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm đem sang đây.
Bà mẹ đành ra về, nghĩ là phải thôi hẳn việc lấy vợ cho con, nhưng Sọ Dừa thì điềm nhiên nói rằng:
– Mẹ sang nói ngay với ông chủ là con có đầy đủ các thứ ấy.
Sáng hôm sau đến hạn nạp lễ vật mà tối hôm trước đó, bà mẹ vẫn chưa thấy gì ngoài túp lều tranh ở góc vườn. Sọ Dừa bảo bà cứ yên tâm, rồi đâu sẽ vào đấy.
Không ngờ, đúng ngày hẹn, bỗng dưng trong nhà xuất hiện đầy đủ mọi sính lễ, lại có cả gia nhân ở dưới nhà chạy lên khiêng lễ vật sang nhà của phú ông. Phú ông hoa cả mắt lúng túng gọi ba cô con gái ra hỏi ý. Hai cô chị bĩu môi chê bai Sọ Dừa xấu xí rồi ngúng nguẩy đi vào, chỉ có cô út là cúi đầu e lệ tỏ ý bằng lòng.
Trong ngày cưới, Sọ Dừa cho bày cỗ linh đình. Lúc rước dâu, chẳng ai thấy Sọ Dừa trọc lốc, xấu xí đâu cả mà chỉ thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đứng bên cô út. Mọi người lúc đó thấy vậy đều cảm thấy sửng sốt và mừng rỡ, còn hai cô chị thì vừa tiếc lại vừa ghen tức.
Từ ngày ấy, hai vợ chồng Sọ Dừa sống với nhau hạnh phúc. Không những thế, Sọ Dừa còn tỏ ra vô cùng thông minh. Chàng ngày đêm miệt mài đèn sách và quả nhiên năm ấy, Sọ Dừa đỗ trạng nguyên. Thế nhưng cũng lại chẳng bao lâu sau, Sọ Dừa được vua sai đi sứ. Trước khi đi, chàng đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà nói là để hộ thân.
Ganh tị với cô em, hai cô chị đã sinh lòng ghen ghét rắp tâm hại em để thay làm bà trạng. Nhân quan trạng đi vắng, hai cô chị sang rủ cô út chèo thuyền ra biển rồi cứ thế lừa đẩy cô em xuống nước.
Cô út bị cá kình nuốt chửng, nhưng may có con dao mà thoát chết. Cô dạt vào một hòn đảo, lấy dao khoét bụng cá chui ra, đánh đá lấy lửa nướng thịt cá ăn. Sống được ít ngày trên đảo, hai quả trứng gà cũng kịp nở thành một đôi gà đẹp để làm bạn cùng cô út.
Một hôm có chiếc thuyền đi qua đảo, con gà trống nhìn thấy bèn gáy to:
ò… ó… o
Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.
Quan cho thuyền vào xem, chẳng ngờ đó chính là người vợ của mình. Hai vợ chồng gặp nhau, mừng mừng tủi tủi. Khi đưa vợ về nhà, quan trạng mở tiệc mừng mời bà con đến chia vui, nhưng lại giấu vợ trong nhà không cho ai biết. Hai cô chị thấy thế khấp khởi mừng thầm, tranh nhau kể chuyện cô em rủi ro ra kiểu thương tiếc lắm. Quan trạng không nói gì, tiệc xong mới cho vợ ra. Hai cô chị nhìn thấy cô em thì xấu hổ quá, lén bỏ ra về rồi từ đó bỏ đi biệt xứ.
Hai vợ chồng quan Trạng từ đó sống cuộc sống yên bình hạnh phúc.

Truyện cổ tích Sơn Tinh Thủy Tinh
Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên gọi là Mỵ Nương, sắc đẹp tuyệt trần. Mỵ Nương được vua cha yêu thương hết mực. Nhà vua muốn kén cho nàng một người chồng phải thật xứng đáng.
Một hôm có hai chàng trai đến, xin ra mắt nhà vua để cầu hôn. Một người ở vùng núi Ba Vì, tuấn tú và tài giỏi khác thường: chỉ tay về phía đông, phía đông biến thành đồng lúa xanh, chỉ tay về phía tây, phía tây mọc lên hàng dãy núi cao. Nhân dân trong vùng gọi chàng là Sơn Tinh. Còn một người ở mãi tận miền biển Đông tài giỏi cũng không kém: gọi gió gió đến, hò mưa tới – Chàng này tên gọi là Thủy Tinh.
Một người là chúa của những miền non cao, một người là chúa của vùng nước thẳm, cả hai đều rất xứng đáng làm rể vua Hùng cả. Hùng Vương lúc này băn khoăn không biết nên nhận lời ai, từ chối ai. Nhà vua cho mời các quan lạc hầu vào bàn mà vẫn không tìm được kế hay. Cuối cùng, Hùng Vương phán rằng:
– Hai người đều vừa ý ta cả, nhưng ta chỉ có một người con gái, không biết gả cho người nào? Ngày mai, nếu ai đem đồ sính lễ đến đây trước: một trăm ván cơm nếp, hai trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, thì sẽ được rước dâu về.
Sáng sớm hôm sau, Sơn Tinh đã đem đầy đủ lễ vật đến trước và được phép đưa dâu về núi. Thủy Tinh đến sau, không lấy được vợ đã đùng đùng nổi giận, đem quân đuổi theo, một hai đòi cướp lại Mỵ Nương.
Thủy Tinh hô mưa, gọi gió, làm thành dông bão đùng đùng rung chuyển cả đất trời, dâng nước sông lên cuồn cuộn tiến đến đánh Sơn Tinh. Nước ngập lúa, ngập đồng rồi ngập nhà, ngập cửa.
Sơn Tinh lúc đó không hề nao núng, dùng phép màu bốc từng quả đồi, di từng dãy núi chặn đứng dòng nước lũ. Nước dâng lên cao bao nhiêu, Sơn Tinh lại làm cho đồi, núi mọc cao lên bấy nhiêu. Hai bên đánh nhau ròng rã mấy tháng trời liền, cuối cùng Thủy Tinh đuối sức phải rút quân về.
Từ đó, oán ngày càng thêm nặng, thù ngày càng thêm sâu, không năm nào Thủy Tinh lại không làm mưa làm bão, dâng nước lên đánh Sơn Tinh và lần nào Thủy Tinh cũng thua, phải bỏ chạy.
Sơn Tinh từ đó được nhân dân tôn là một trong bốn vị tứ bất tử của dân tộc.

Truyện cổ tích Thánh Gióng
Vào thời Hùng Vương có một người đàn bà đã nhiều tuổi nhưng sống một mình. Một hôm sáng dậy bà đi thăm nương, bỗng nhìn thấy một vết chân giẫm nát cả mấy luống cà. Bà kêu lên: – “Ôi! Bàn chân ai mà to thế này!”.
Bỗng bà cảm thấy rùng mình khi đưa bàn chân ướm thử vào dấu chân lạ. Và từ đó bà có mang. Đủ ngày tháng, bà sinh được một đứa con trai bụ bẫm đặt tên là Gióng. Nhưng thằng bé đã lên ba tuổi rồi mà vẫn nằm ngửa đòi ăn, không biết ngồi biết lẫy, cũng không biết nói hay biết cười.
Ngày ấy có giặc Ân kéo vào cướp nước ta. Giặc Ân rất hung tàn, cầm đầu là một viên tướng tên gọi Ân vương. Chúng đi đến đâu là đốt phá nhà cửa, giết người cướp của đến đấy. Quân đội Hùng Vương nhiều phen xuất trận, nhưng đánh không nổi lại chúng. Vua Hùng lấy làm lo lắng vội phái sứ giả đi khắp nơi trong nước tìm tướng tài để giúp vua cứu nước.
Một hôm sứ giả đi đến làng chú bé Gióng. Nghe tiếng loa rao nói đến việc nhà vua cầu người tài, bà mẹ Gióng đang ru con, liền bảo đùa con rằng:
– Con ơi! Con của mẹ chậm đi chậm nói thì biết bao giờ mới đi đánh giặc giúp vua được đây!
Không ngờ Gióng nhìn mẹ mở miệng bật lên thành tiếng:
– Mẹ cho gọi sứ giả vào đây cho con!
Nói xong lại im bặt. Bà mẹ vừa mừng vừa sợ, vội đi kể chuyện với xóm giềng. Mọi người tới nhà ai nấy cho là một sự lạ. Sau cùng một người nói:
– Ta cứ đi mời sứ giả đến xem thử nó muốn cái gì.
Khi sứ giả của nhà vua bước vào nhìn thấy chú bé Gióng liền hỏi rằng:
– Mày là đứa trẻ lên ba mới học nói, mày định mời ta đến đây để làm gì?
Gióng trả lời rất chững chạc:
– Về bảo với nhà vua rèn cho ta một con ngựa sắt, một thanh gươm sắt, một giáp sắt và một nón sắt, ta sẽ đánh đuổi giặc dữ cho!
Ai nấy đứng nghe khôn xiết lạ lùng. Cho là thần nhân xuất hiện, sứ giả lập tức phi ngựa về tâu với nhà vua. Nghe nói, Hùng Vương mừng rỡ liền ra lệnh cho thợ rèn góp tất cả sắt lại rèn ngựa, gươm, áo giáp và nón như lời xin của chú bé. Mọi thứ rèn đã xong nặng không thể tưởng tượng nổi. Hàng chục người mó vào thanh gươm mà không nhúc nhích. Vua Hùng phải cho hàng ngàn quân sĩ tìm mọi cách để chở đến cho chú bé Gióng.
Khi được tin quân sĩ khiêng ngựa sắt sắp đến làng, mẹ Gióng sợ hãi chạy về bảo con:
– Con ơi! Việc nhà vua đâu phải là chuyện chơi. Hiện quân sĩ đang kéo đến ầm ầm ngoài bãi rồi, biết làm thế nào bây giờ con?
Nghe nói thế, Gióng vụt ngồi dậy, nói:
– Việc đánh giặc thì mẹ đừng lo. Nhưng mẹ phải cho con ăn thật nhiều mới được!
Mẹ vội thổi cơm cho con ăn, nhưng cứ nấu lên được nồi nào Gióng ngốn hết ngay nồi ấy. Mỗi lần ăn một nồi cơm thì Gióng lại lớn thêm một ít và đòi ăn thêm. Mẹ càng cho con ăn thì con lại càng lớn như thổi, bỗng chốc đã thành một chàng thanh niên vô cùng khỏe mạnh. Hết gạo, bà mẹ đi kêu gọi xóm làng. Mọi người nô nức đem gạo khoai, trâu, rượu, hoa quả, bánh trái mang đến đầy một sân. Nhưng đưa đến bao nhiêu thì Gióng ăn vợi hết bấy nhiêu, mà vẫn đòi ăn không nghỉ.
Sau đó, Gióng lại bảo tiếp:
– Mẹ kiếm vải cho con mặc.
Người ta lại đua nhau mang vải lụa tới may áo quần cho Gióng mặc. Nhưng thân thể Gióng lớn vượt trội một cách kỳ lạ, áo quần vừa may xong đã thấy chật, thấy ngắn, lại phải mang vải lụa tới để chắp nối thêm. Không mấy chốc đầu Gióng đã chạm đến nóc nhà. Ai nấy chưa hết kinh ngạc thì vừa lúc quân sĩ đã hì hục khiêng được ngựa, gươm, áo giáp và nón sắt tới. Gióng bước ra khỏi nhà vươn vai một cái, người bỗng cao to sừng sững, chân dài hơn trượng, hét lên một tiếng như tiếng sấm:
– Ta là tướng nhà Trời!
Thế rồi Gióng mặc giáp sắt, đội nón sắt, tay cầm gươm múa quanh mấy vòng. Đoạn từ biệt mẹ và dân làng, nhảy lên lưng ngựa. Ngựa sắt bỗng chồm lên, phun thẳng ra đằng trước một luồng lửa đỏ rực. Gióng thúc chân, ngựa phi như bay, sải từng bước dài hàng chục con sào. Chỉ trong chớp mắt, ngựa đã xông đến đồn trại giặc đang đóng la liệt cả mấy khu rừng. Lưỡi gươm của Gióng vung lên loang loáng như chớp giật. Quân giặc xông ra chừng nào chết chừng ấy. Ngựa thét ra lửa thiêu cháy từng dãy đồn trại, lửa thiêu luôn cả mấy khu rừng.

Nhưng tướng giặc Ân vương vẫn còn cố gào thét hô quân xáp tới, Gióng càng đánh càng khỏe, thây giặc nằm ngổn ngang. Bỗng chốc gươm gãy, Gióng không chút bối rối, thuận tay nhổ những bụi tre hai bên đường quật tới tấp vào các toán giặc đang cố gắng trụ lại theo lệnh chủ tướng. Chẳng mấy chốc quân giặc đã tẩu tán bỏ chạy khắp nơi, Ân vương bị quật chết tan xác. Bọn tàn binh giặc lạy lục xin hàng. Quân đội của Hùng Vương cũng như dân các làng chỉ còn việc xông ra trói chúng lại. Không đầy một buổi, Gióng đã trừ xong nạn cho nước nhà. Lúc bấy giờ ngựa Gióng đã tiến đến chân núi Sóc Sơn. Đến đây, Gióng bèn cởi giáp bỏ nón lại, rồi cả người lẫn ngựa bay thẳng lên trời.
Sau khi thắng trận, để nhớ ơn người anh hùng, vua Hùng sai lập đền thờ Gióng ở làng quê, phong làm Phù Đổng thiên vương.
Ngày nay chúng ta còn thấy vẫn còn những dấu vết như dãy ao tròn nối nhau kéo dài suốt từ Kim Anh, Đa Phúc cho đến Sóc Sơn, người ta bảo đó là những vết chân ngựa của Thánh Gióng. Khu rừng bị ngựa sắt phun lửa thiêu cháy nay còn mang cái tên là làng Cháy. Những cây tre mà Gióng đã nhổ quật vào giặc bị lửa đốt màu xanh ngả thành màu vàng và có những vết cháy lốm đốm, ngày nay giống ấy vẫn còn, người ta gọi là tre là ngà (hay đằng ngà).

Truyện cổ tích cho bé: Tấm Cám
Ngày xửa ngày xưa, có hai chị em cùng cha khác mẹ. Người chị tên là Tấm còn em là Cám. Mẹ của Tấm đã mất từ sớm, còn cha cũng qua đời sau đó mấy năm. Để lại Tấm ở với dì ghẻ là mẹ Cám.
Bà mẹ kế vô cùng cay nghiệt và độc ác. Bà ta bắt Tấm phải làm hết những công việc nặng nhọc trong nhà. Ngược lại, Cám lại vô cùng được chiều chuộng, không phải làm bất cứ việc gì.
Một hôm, bà mẹ đưa cho hai chị em, mỗi người một cái giỏ để ra đồng xúc tép và hứa rằng: “Nếu đứa nào bắt được đầy giỏ tép thì sẽ được thưởng một cái yếm đỏ”. Nghe lời của mẹ, Tấm chăm chỉ siêng năng nên chẳng mấy chốc mà đã được một giỏ đầy vừa cá vừa tép. Còn Cám thì mải chơi, dạo hết từ ruộng nọ sang ruộng kia, hái hoa bắt bướm nên mãi mà chẳng bắt được gì.
Thấy Tấm đã bắt được một giỏ đầy, Cám bảo chị:
- Chị Tấm ơi, chị Tấm! Đầu chị lấm, chị hụp cho sâu, kẻo về mẹ mắng.
Nghe Cám nói vậy, Tấm tin là thật nên liền xuống ao tắm rửa cho sạch. Nhân cơ hội đó, Cám liền trút hết tép của Tấm vào giỏ của mình rồi chạy nhanh về nhà. Khi lên bờ thấy chỉ còn lại chiếc giỏ trống trơn, Tấm ngồi xuống và bưng mặt khóc. Nghe thấy tiếng khóc của Tấm, ông Bụt hiện lên và hỏi:
- Tại sao con khóc?
Tấm đem hết sự tình kể lại cho Bụt nghe. Nghe xong, Bụt bảo rằng:
- Thôi con hãy nín đi! Bây giờ, con hãy thử nhìn vào giỏ xem còn có gì nữa không?
Tấm liền nhìn vào giỏ và phát hiện ra trong giỏ còn lại một con cá bống. Bụt lại cất lời tiếp:
- Con hãy đem con cá bống ấy về rồi thả nuôi trong giếng. Mỗi bữa con chừa lại một bát cơm cho bống ăn. Mỗi lần cho ăn, con nhớ gọi thế này:
Bống bống, bang bang
Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta
Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người
Nói xong thì Bụt biến mất. Thế là từ đó, nghe theo lời dặn của Bụt, Tấm thả cá bống xuống giếng và cho ăn hằng ngày. Mỗi khi nghe tiếng Tấm gọi, bống liền bơi lên mặt nước và ăn những hạt cơm của Tấm ném xuống. Chẳng mấy chốc mà bống lớn nhanh như thổi.
Ngày nào cũng thấy Tấm cứ sau bữa ăn đều mang cơm ra giếng nên mụ dì ghẻ sinh nghi nên bảo Cám đi rình. Cám sau khi nghe thấy Tấm gọi bống thì kể lại hết cho mẹ nghe. Tối hôm ấy, mụ dì ghẻ ngọt ngào bảo với Tấm rằng:
- Con ơi con! Làng đã bắt đầu cấm đồng rồi đấy. Mai con đi chăn trâu, phải chăn đồng xa, chớ chăn đồng nhà, làng bắt mất trâu.
Nghe theo lời dặn, ngày hôm sau Tấm đưa trâu đi ăn thật xa. Ở nhà, mẹ con Cám đem cơm ra giếng và gọi bống lên ăn giống như Tấm gọi. Khi bống vừa ngoi lên mặt nước, mẹ con Cám liền bắt lấy bống rồi đem về nhà làm thịt.
Đến chiều sau khi dắt trâu về, Tấm ăn xong vẫn mang bát cơm để dành ra giếng nhưng gọi mãi không thấy bống ngoi lên như mọi khi. Cuối cùng, chỉ thấy cục máu nổi lên trên mặt nước. Thấy vậy, Tấm lại òa lên khóc nức nở. Bụt lại hiện lên và hỏi:
- Con làm sao lại khóc?
Tấm đem sự tình kể lại. Nghe xong, Bụt bảo:
- Cá bống đã bị người ta ăn thịt mất rồi. Thôi, con đừng khóc nữa! Về nhà, con nhặt xương cá, bỏ vào bốn cái lọ rồi đem chôn xuống dưới bốn chân giường con nằm.
Tấm trở về và đi tìm xương bống theo lời Bụt. Nhưng tìm khắp các nơi mà không thấy đâu cả. Bỗng con gà ở đâu chạy ra và bảo Tấm:
- Cục ta cục tác! Cho ta nắm thóc, ta bới xương cho!
Sau khi được Tấm ném thóc cho, gà chạy vào bếp bới một lúc thì thấy xương ngay. Tấm nhặt lấy, bỏ vào lọ và đem chôn dưới chân giường giống như lời Bụt dặn.
Không lâu sau đó, nhà vua mở hội trong mấy đêm ngày. Già trẻ, trai gái đều xúng xính quần áo mới nô nức đi xem hội. Hai mẹ con Cám cũng sắm sửa quần áo đẹp để đi trẩy hội. Tấm xin được đi cùng thì mụ dì ghẻ nguýt dài rồi lấy một đấu gạo trộn lẫn với một đấu thóc, bảo Tấm:
- Khi nào nhặt được riêng gạo và thóc ra hai đấu thì mới được đi xem hội.
Nói xong, hai mẹ con Cám lên đường đi hội. Cảm thấy tủi thân, Tấm khóc nức nở. Bụt lại hiện lên và hỏi:
- Làm sao con khóc?
Tấm chỉ vào cái thúng và thưa với Bụt:
- Dì bắt con phải nhặt riêng thóc ra thóc, gạo ra gạo rồi mới được đi xem hội. Nhưng lúc con nhặt xong thì hội đã tan rồi, không còn gì mà xem nữa ạ.
Bụt nghe xong thì liền sai một đàn chim sẻ xuống sân nhặt thóc và gạo giúp Tấm, chỉ một loáng là xong. Nhưng tấm lại nức nở khóc vì không có quần áo đẹp để đi hội. Bụt lại bảo rằng:
- Con hãy đào những cái lọ xương bống đã chôn ngày trước lên thì sẽ có đủ thứ cho con trẩy hội.
Tấm vâng lời và đào các lọ lên. Lọ thứ nhất mở ra là một bộ váy áo tuyệt đẹp, lọ thứ hai là một đôi hài thêu, lọ thứ ba là một con ngựa nhỏ xíu, nhưng khi vừa đặt xuống đất, con ngựa bỗng chốc biến thành ngựa thật. Lọ cuối cùng là một yên cương vững chắc. Tấm vui mừng không xiết, nhanh chóng thay đồ rồi lên đường vào kinh.
Ngựa phóng một chốc đã đến kinh đô. Thế nhưng, lúc đi qua một cây cầu đá, Tấm lỡ đánh rơi một chiếc hài xuống nước, không làm cách nào lấy lên được.
Khi đoàn của nhà vua đi qua cầu, hai con voi dẫn đầu đoàn lại kêu rống lên và nhất quyết không chịu đi tiếp. Thấy lạ, vua bèn sai quân lính xuống dưới xem xét. Sau một hồi, họ mò được một chiếc hài thêu. Nhà vua ngắm nghía chiếc hài kĩ càng rồi hạ lệnh thông báo tất cả đàn bà con gái đi trẩy hội ướm thử, nếu ai đi vừa chiếc hài này thì vua sẽ lấy làm vợ.
Vậy là các bà, các cô chen nhau đến chỗ thử giày làm cho đám hội càng thêm náo nhiệt. Nhưng chẳng ai đi vừa cả. Mẹ con Cám cũng qua thử nhưng không được. Thấy Tấm cũng đến, Cám nói với mẹ:
- Mẹ ơi, ai như chị Tấm cũng đi thử hài kìa!
Mụ dì ghẻ tỏ ý coi thường nói:
- Chuông khánh còn chẳng ăn ai, nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre!
Thế nhưng khi Tấm đặt chân vào hài thì vừa như in. Nhà vua vô cùng vui mừng và lập tức rước nàng vào cung.
Mặc dù sống trong hoàng cung rất sung sướng nhưng Tấm vẫn không quên ngày giỗ cha. Tới ngày giỗ cha, nàng xin phép vua trở về nhà. Vốn đã đố kị với cuộc sống an nhàn của Tấm, nay thấy Tấm về thì mẹ con Cám lại bùng lên lòng ghen ghét, bày mưu giết Tấm.
Mụ dì ghẻ bảo Tấm:
- Trước đây con quen trèo cau, con hãy trèo lên xé lấy một buồng cau để cúng bố.
Tấm vâng lời trèo lên cây cau, mụ dì ghẻ ở dưới cầm dao đốn gốc. Thấy cây rung chuyển, Tấm hỏi :
- Dì làm gì dưới gốc thế ?
- Gốc cau lắm kiến, dì đuổi kiến cho nó khỏi lên đốt con.
Cây cau đã đổ, Tấm ngã xuống ao chết. Mụ dì ghẻ cho con mình mặc quần áo của Tấm vào cung, nói dối với vua rằng Tấm không may bị rơi xuống ao chết đuối, nay đưa em vào để thế chị. Nhà vua vô cùng giận dữ nhưng không nói lời nào.
Tấm chết thì hóa thành chim Vàng Anh, bay đến vườn thượng uyển. Một lần Cám đang giặt áo cho vua, chim liền đậu trên cành cây và hót:
“Giặt áo chồng tao thì giặt cho sạch
Phơi áo chồng tao phơi lao phơi sào
Chớ phơi bờ rào rách áo chồng tao”
Rồi chim Vàng Anh lại bay vào cung vua hót líu lo rất vui tai. Vua đi đâu, chim bay đến đó. Đang lúc nhớ nhung Tấm không nguôi, thấy chim quyến luyến theo mình, vua bảo:
- Vàng ảnh vàng anh, có phải vợ anh, chui vào tay áo
Thấy thế, chim Vàng Anh bay lại rúc vào tay áo của nhà vua. Từ đó, vua chỉ mải mê yêu quý Vàng Anh, còn sai làm một cái lồng bằng vàng cho chim. Cám tức tối về mách mẹ. Mụ dì ghẻ bảo Cám bắt chim làm thịt rồi lấy lý do nói dối vua. Thực hiện theo lời mẹ, Cám làm thịt chim nhân lúc vua đi vắng rồi đem lông chim chôn ở ngoài vườn.
Nơi chôn lông chim Vàng Anh lại mọc ra hai cây xoan đào, cành lá xum xuê, đẹp rợp bóng nên nhà vua sai lính mắc võng ở đó nằm chơi. Ngày nào vua cũng ra nằm hóng mát ở hai cây xoan đào.
Cám lại về nhà mách mẹ. Mụ dì ghẻ mách nước cho Cám là chặt cây làm khung cửi. Về đến cung, trong một hôm gió bão, Cám đã sai thợ đốn cây, lấy gỗ đóng khung cửi. Khi vua hỏi thì Cám trả lời rằng:
- Cây bị đổ là do bão. Thiếp sai thợ chặt làm khung cửi để dệt áo cho bệ hạ.
Thế nhưng khi Cám ngồi vào dệt thì lúc nào cũng nghe thấy tiếng khung cửi như đang rủa mình:
Cót ca cót két
Lấy tranh chồng chị.
Chị khoét mắt ra
Cám sợ hãi, sau khi về nhà mách mẹ thì đem đốt khung cửi, đem tro đã đốt đem đổ ở lề đường cách xa hoàng cung. Từ đồng tro lại mọc lên một cây thị. Đến mùa ra trái, cây thị chỉ đậu được đúng một quả nhưng lại tỏa mùi hương thơm ngát. Một bà lão bán hàng nước gần đó khi đi qua ngửi thấy mùi thơm và nhìn thấy quả thị trên cành cao bèn giơ bị ra và nói lẩm bẩm:
- Thị ơi thị rụng bị bà. Bà để bà ngửi chứ bà không ăn.
Khi bà lão vừa nói dứt lời thì quả thị rơi ngay xuống bị. Về nhà, bà lão cât trong buồng, thỉnh thoảng lại vào ngắm nghía, ngửi mùi thơm. Cứ mỗi ngày khi bà lão đi chợ về thì đã thấy nhà cửa gọn gàng tinh tươm, cơm ngon canh ngọt dọn ra sẵn nên lấy làm lạ lắm. Vì thế, một hôm bà lão giả vờ đi chợ, đến nửa đường thì trở về, lén rình ở bụi cây sau nhà. Bà thấy Tấm chui ra từ quả thị, cầm chổi quét dọn nhà cửa, vo gạo thổi cơm, hái rau nấu canh. Thấy vậy bà lão mừng quá, xô cửa vào ôm lấy Tấm, xé vụn vỏ thị.
Từ đó, Tấm ở với bà lão hàng nước và giúp những việc nhà cho bà bán hàng. Trong một lần nhà vua đi vi hành liền ghé vào quán nước của bà lão. Bà lão mang trầu nước dâng lên vua. Khi nhìn thấy miếng trầu têm cánh phượng, vua lại nhớ tới ngày trước vợ mình têm trầu cũng giống hệt như vậy, liền hỏi:
- Bà ơi, trầu này ai têm mà khéo vậy?
- Trầu này là do con gái bà têm - Bà lão thật thà đáp.
Nhà vua bèn ngỏ ý muốn gặp con gái bà lão. Khi Tấm vừa xuất hiện, vua nhận ra vợ mình ngày trước thì vui mừng lắm, nghe bà lão kể lại sự tình rồi đưa kiệu rước Tấm về trong cung.
Cám thấy Tấm trở về và được vua yêu thương như xưa thì không khỏi sợ hãi. Một hôm, Cám hỏi chị:
- Chị Tấm ơi chị Tấm, chị làm thế nào mà đẹp thế?
Tấm không đáp, chỉ hỏi lại:
- Có muốn đẹp không để chị giúp?
Cám bằng lòng ngay. Tấm sai quân hầu đào một cái hố sâu và đun một nồi nước sôi. Tấm bảo Cám xuống hố rồi sai quân hầu giội nước sôi vào hố. Cám chết. Mụ dì ghẻ thấy vậy cũng lăn đùng ra chết...

Truyện cổ tích: Trí khôn của ta đây
Một ngày nọ, có con cọp rất lớn từ trong rừng sâu ra ngoài, nó trông thấy ở ngay thửa ruộng cạnh rừng có bác nông dân cùng con trâu mộng chăm chỉ cày cuốc. Tuy rằng con trâu kia rất chăm chỉ kéo cày nhưng mà lâu lâu thì bác nông dân kia lại quất cho nó mấy roi tạo thành tiếng “đét… đét…” vào mông.
Thấy cảnh này thì cọp cảm thấy ngạc nhiên lắm. Nó đợi cho đến khi buổi trưa tới, đợi cho bác nông dân tháo hết cày ra cho trâu, rồi nó mới lân la tiến tới để hỏi chuyện nó vẫn tò mò:
– Này anh kia. Tôi trông anh to khỏe thế sao lại để cho bọn con người đánh đập, hành hạ đến khổ sở như thế chứ?
Trâu thấy cọp tới thì cũng tỏ vẻ bình tĩnh, nghe cọp hỏi xong thì nó mới thì thầm:
– Anh không biết đấy thôi! Nhìn con người nhỏ bé vậy nhưng họ có trí khôn, đáng sợ lắm!
Nghe trâu nói như vậy thì cọp ta lại càng cảm thấy kì lạ và khó hiểu hơn. Cọp lại hỏi:
– Trí khôn ư? Nó là gì thế? Trông nó như nào vậy anh?
Nhưng mà trâu cũng chẳng biết cách để giải thích cho cọp hiểu chuyện này, vì vậy nó liền kiếm cớ trả lời qua loa cho qua chuyện:
– Trí khôn thì là trí khôn chứ gì nữa hả? Nếu như mà anh muốn được biết rõ hơn nữa thì hãy tìm con người mà hỏi!
Truyện cổ tích: Trí khôn của ta đây
Cọp ta bước đi rất thong thả mà tiến gần lại chỗ mà bác nông dân đang nghỉ ngơi, nó liền hỏi:
– Này anh, trí khôn của anh đâu rồi, đem cho tôi xem môt chút đi nào?
Bác nông dân nhìn cọp rồi nghĩ ngợi hồi lâu, sau đó mới đáp lời:
– Tiếc là tôi để trí khôn ở nhà rồi. Hay là tôi chạy về đem nó ra đây cho anh nhìn nhé! Nếu như anh thích thì tôi có thể cho anh một chút đấy!
Nghe bác nông dân bảo vậy thì cọp ta hết sức mừng rỡ, vội vàng giục bác về nhà lấy. Nhưng bác nông dân vừa định đi thì lại chợt nhớ ra chuyện gì đó nên lại quay lại bảo với cọp rằng:
– Nhưng mà nhỡ đâu lúc tôi về nhà thì anh ở đây lại ăn mất toi con trâu kia của tôi thì tôi biết phải làm sao?
Bị hỏi vậy thì cọp ta cũng bất ngờ lắm, trong lúc nó còn đương băn khoăn chẳng biết mình phải trả lời làm sao cho hợp tình hợp lí, thì bác nông dân lại tiếp lời:
– Như vậy nhé, để tôi yên tâm trở về, anh chịu khó một chút cho tôi buộc tạm anh vào cái gốc cây kia được không?
Tất nhiên là cọp ta chẳng có chút nghi ngờ nào về chuyện này nên chấp thuận ngay được. Bác nông dân đợi cọp đồng ý thì đem tới dây thừng và trói cọp thật chặt vào dưới gốc cây cạnh đó.
Xong rồi bác lại đem tới rất nhiều rơm khô để chất xung quanh chỗ cọp. Sau cùng thì bác châm lửa để đốt rơm, rơm cháy và bác liền quát:
– Trí khôn của ta đây! Trí khôn của ta đây!
Nhìn thấy cảnh này thì con trâu ở gần đấy cũng thích thú lắm, nó bò lăn ra đất mà cười, không may là hàm trên của nó đập phải đá làm cho toàn bộ răng ở trên bị rụng sạch sẽ, không còn sót lại một cái nào cả.
Còn cọp ta thì hết sức vùng vẫy ở bên trong đám cháy. Phải một hồi lâu sau đó, lửa cháy lớn làm đám dây thừng bị đứt, đến lúc ấy thì cọp mới thoát được. Nó co chân co cẳng vùng dậy và chạy thẳng vào trong rừng sâu, cũng chẳng dám ngoảnh đầu nhìn lại nữa.
Cũng kể từ ngày đó trở đi thì đám cọp con được sinh ra thì con nào cũng đều có thêm những vằn màu đen và kéo dài ở trên người. Những vết vằn ấy chính là dấu vết còn sót lại của những vệt cháy ngày xưa.
Còn đám trâu cũng kể từ khi ấy mà con nào con ấy đều không có răng ở hàm trên, trơ trọi chỉ có mỗi lợi mà thôi.

Truyện cổ tích cho bé: Quạ và Cáo
Câu chuyện này nói lên một điều: Khi làm bất cứ việc gì, chúng ta cũng cần phải suy nghĩ thấu đáo, không nên bị đánh lừa bởi những lời đường mật của kẻ khác.
Một hôm, Cáo thấy đói tới mức bụng sôi lên ùng ục, nó bèn mò ra khỏi hang để đi tìm thức ăn. Nó nhìn thấy một chú Quạ đang đậu trên cành cây cao, trong miệng ngậm một miếng pho mát vừa mới kiếm được. Cáo thèm đến chảy cả nước miếng, nó đảo mắt một lượt, thấy xung quanh không có ai, liền nói với Quạ: “Bạn Quạ thân mến ơi, bạn có khỏe không?” Quạ chỉ liếc Cáo một cái nhưng không trả lời.
Cáo lại vẫy vẫy đuôi nói: “Bạn Quạ thân mến ơi, tiếng hát của bạn mới hay làm sao, cảm động làm sao, ai cũng thích nghe bạn hát, bạn hãy hát một bài đi nào.”
Quạ nghe thấy Cáo khen thì thích chí quá, kêu lên một tiếng “Quạ..." thế nhưng vừa mở miệng thì miếng pho mát rơi xuống. Cáo liền nhanh chóng đớp lấy pho mát và bỏ chạy.
Truyện cổ tích ăn khế trả vàng
Ngày xửa ngày xưa, có hai anh em nhà kia cha mẹ mất sớm. Khi người anh đi lấy vợ, người anh không muốn ở chung với em mình nữa, nên quyết định chia gia tài của cha mẹ để lại.
Người anh tham lam chiếm hết cả nhà cửa, ruộng vườn, trâu bò của cha mẹ để lại, chỉ để cho người em một túp lều nhỏ và mảnh vườn, trong đó có một cây khế ngọt. Người em không chút phàn nàn gì, ngày ngày chăm bón cho cây khế và đi cày thuê, cuốc mướn nuôi thân.
Năm ấy, cây khế trong vườn nhà người em bỗng nhiên sai quả lạ thường, cành nào cũng nặng trĩu quả ngọt, vàng ruộm. Người em nhìn cây khế mà lòng khấp khởi vui mừng lắm, thầm tính chuyện bán khế lấy tiền đong gạo.
Một hôm, có con chim Phượng Hoàng từ đâu bay đến mổ khế ăn lia lịa. Thấy thế, người em vội vác gậy đuổi chim và nói. “Này chim! Ta chỉ có duy nhất một cây khế này, và ta đã khó nhọc chăm sóc đến ngày hái quả. Nay nếu chim ăn hết ta chẳng có gì để bán đi mua gạo. Vậy nếu chim muốn ăn hãy mang trả ta vật gì có giá trị”.
Chim vừa ăn vừa đáp: “Ăn một quả, trả cục vàng may túi ba gang, mang theo mà đựng“. Người em nghe chim nói vậy, cũng đành để cho chim ăn. Mấy hôm sau, chim lại đến ăn khế. Ăn xong chim bảo người em lấy túi ba gang đi lấy vàng. Người em chạy vào nhà rồi lấy chiếc túi ba gang đã may sẵn leo lên lưng chim.
Chim bay mãi, bay mãi qua những ngọn núi cao, qua biển rộng bao la và đỗ xuống một hòn đảo đầy vàng bạc, châu báu. Người em đi khắp đảo nhìn ngắm thỏa thích rồi lấy vàng bỏ đầy túi ba gang. Chim Phượng Hoàng bảo lấy thêm nhưng người em cũng không lấy. Xong xuôi, người em leo lên mình chim trở về nhà.
Từ đó, người em trở nên giàu có, người em mang thóc, gạo, vàng bạc… giúp đỡ cho những người nghèo khổ. Người anh nghe tin em giàu có liền sang chơi và đòi đổi nhà, ruộng vườn của mình lấy cây khế ngọt kia, người em cũng đồng ý đổi cho anh. Thế là người anh chuyển sang nhà người em. Mùa năm sau, cây khế lại sai trĩu quả, chim Phượng Hoàng lại tới ăn. Người anh giả vờ khóc lóc, chim bèn nói: “Ăn một quả, trả cục vàng May túi ba gang, mang theo mà đựng”.
Người anh vui mừng quá, giục vợ may túi không phải 3 gang nữa mà là 12 gang để đựng được nhiều vàng. Hôm sau chim Phượng Hoàng đưa người anh đi lấy vàng. Vừa đến nơi, người anh đã vội vàng vơ lấy vàng bỏ vào túi, lại còn giắt thêm đầy vàng bỏ vào trong người. Chim cố sức bay nhưng đường thì xa mà vàng thì nhiều và nặng quá. Mấy lần chim bảo người anh vứt bớt vàng đi cho nhẹ nhưng người anh vẫn không chịu và khăng khăng ôm lấy cái túi. Chim Phượng Hoàng bực tức, nó nghiêng cánh hất người anh tham lam xuống biển.

Truyện cổ tích cho bé: Cây tre trăm đốt
Xưa có một chàng trai cày khỏe mạnh đi làm thuê cho vợ chồng nhà phú hộ. Hai vợ chồng phú hộ có hứa rằng: “Con chịu khó làm việc chăm chỉ cho ta trong 3 năm nữa, hết 3 năm ta sẽ gả con gái cho”.
Tin lời phú hộ hứa, anh làm việc ngày đêm không quản khó nhọc. Nhưng 3 năm trôi qua, phú hộ tới lúc phải thực hiện lời hứa thì ông ta trở mặt. Ông ta đưa ra một điều kiện cho anh trai cày là phải tìm bằng được một cây tre trăm đốt mang về thì ông ta sẽ gả con gái cho.
Anh liền vào rừng kiếm tre với hy vọng lấy được con gái của ông chủ. Nhưng tìm mãi anh không tài nào tìm được cây tre nào có 100 đốt, anh thất vọng ngồi khóc.
Truyện cổ tích cho bé: Cây tre trăm đốt
Bụt hiện lên và bảo anh hãy đi tìm chặt đủ 100 đốt tre mang về rồi dạy anh đọc câu thần trú “khắc nhập, khắc nhập” để một trăm đốt tre nhập vào nhau, bụt dạy anh tiếp câu “khắc xuất khắc xuất” để một trăm đốt tre rời ra như cũ.
Anh gánh một trăm đốt tre trở về làng.Về tới nhà thấy phú hộ đang tổ chức đám cưới để gả con gái cho con trai một tên giàu có khác, anh tức quá đọc “khắc nhập khắc nhập”, 100 đốt tre gắn lại với nhau và gắn chặt luôn tên phú hộ vào đó. Khi hắn hứa sẽ giữ lời hứa như ban đầu thì anh mới đọc “khắc xuất khắc xuất” để giải thoát cho hắn khỏi cây tre.

Truyện cổ tích: Cóc kiện trời
Thủa xa xưa, Ngọc Hoàng cai quản tất cả các việc trên trời và dưới đất. Ngọc Hoàng giao cho thần Mưa chịu trách nhiệm làm mưa cho tất cả các con vật và cây cỏ có nước uống.
Nhưng đã ba năm nay, không có một giọt mưa nào. Khắp nơi đất đai nứt nẻ, cây cỏ khát nước chết rụi, các con thú cũng chết dần chết mòn vì khát. Muôn loài đều kêu than ai oán, vậy mà trời đâu có thấu.
Một hôm, các con vật họp bàn nhau lại, chúng quyết định cử Cóc lên gặp Ngọc Hoàng. Cùng đi với Cóc có Cáo, Gấu và Cọp.
Bốn con vật đi mãi, cuối cùng cũng lên đến cửa nhà trời. Ở cửa có đặt cái trống rất to. Theo tục lệ nếu ai có điều gì oan ức thì đánh trống lên. Ngọc Hoàng sẽ ra giải quyết. Cóc bảo Cáo, Gấu, Cọp nấp vào bụi rậm, còn Cóc thì nhảy lên đánh trống inh ỏi.
Ngọc Hoàng nghe tiếng trống liền sai một thiên thần ra nhìn xem ai. Thiên thần bước ra nhìn ngược, nhìn xuôi mãi cũng không thấy ai, chỉ thấy con Cóc bé nhỏ ngồi trên trống. Khi biết Cóc có ý định gặp Ngọc Hoàng để kêu oan, thiên thần tỏ ý khinh bỉ Cóc, lẳng lặng đi vào và thưa với Ngọc Hoàng.
- Thưa Ngọc Hoàng, kẻ dám cả gan đánh trống ầm ĩ nhà trời là một con Cóc bé tí, xấu xí khinh khủng, thần hỏi nó đi đâu, nó nói lên Ngọc Hoàng để kiện.
Ngọc Hoàng nghe thiên thần nói như vậy thì lấy làm giận lắm, bèn sai bầy Gà ra mổ Cóc. Nhưng bầy Gà vừa ló khỏi cửa, Cóc ra hiệu cho Cáo từ bụi rậm xong ra vồ gà.
Biết Gà bị Cáo vồ mất, Ngọc Hoàng liền sai Chó ra giết Cáo. Chó chạy ra chỉ kịp sủa “Gâu gâu gâu ” mấy tiếng đã bị Gấu ra chộp lấy tha đi. Ngọc Hoàng lại sai một toán lính ra trị Gấu. Lần này, Cọp xông ra quật chết toán lính không còn sót một người nào.
Ngọc Hoàng không ngờ Cóc tuy bé nhỏ mà lại khó trị như vậy, Ngọc Hoàng đổi giận thành làm lành sai thiên thần ra mời Cóc vào. Ngọc Hoàng hỏi Cóc:
- “Cậu” lên đây có việc gì?
Cóc thưa:
- Muôn tâu Ngọc Hoàng, đã 3 năm nay chúng tôi không được một giọt mưa nào. Loài vật cử tôi lên đây để kiện trời, vì sao không làm mưa?
Ngọc Hoàng cho gọi thần mưa đến. Té ra thần Mưa mải rong chơi tối về đắp chiếu nằm ngủ, quên không làm mưa bị Ngọc Hoàng trách mắng, thần Mưa vội sai các con rồng phun nước ào ào xuống đất. Ngọc Hoàng đưa tiễn Cóc ra về và dặn:
- Từ nay về sau, nếu cần mưa thì Cóc nghiến răng ken két báo cho Ngọc Hoàng biết. Ta sẽ sai thần làm mưa ngay. Cóc không phải lên kiện trời nữa.
Cóc, Cáo, Gấu, Cọp từ biệt Ngọc Hoàng trở về dưới đất. Khi bốn con vật đến nơi thì thấy nước đã tràn đầy hồ, ao, sông, suối, cây cỏ, muôn loài uống nước thỏa thuê. Tất cả đều phục Cóc bé tí mà kiện được trời nên đặt ra câu hát:
“Con cóc là cậu ông trời
Hễ ai đánh Cóc thì trời đánh cho”.

Truyện cổ tích: Sự tích quả dưa hấu
Ngày xưa có một người trẻ tuổi tên là Mai An Tiêm. Chàng là người ở một nước đâu tận vùng biển phía Nam, bị bán làm nô.
Một hôm, chàng bị bọn lái buôn chở đến bán cho Hùng Vương. Mai An Tiêm học nói tiếng Việt rất chóng. Chàng nhớ nhiều chuyện, biết nhiều điều thường thức, lại lắm tài nghề. Càng ngày vua càng yêu dấu, không lúc nào rời.
Năm ba mươi lăm tuổi, chàng làm quan hầu cận, có một ngôi nhà riêng ở gần cung vua. Vợ Mai là con gái nuôi của vua đã sinh được một trai lên năm tuổi. Mai có đủ mọi người hầu hạ, trong nhà của ngon vật lạ không thiếu thứ gì. Tuy oai quyền không lớn lắm nhưng chàng được mọi người sợ phục. Nhiều kẻ vẫn thường lui tới cầu cạnh. Nhưng thấy Mai có địa vị cao, cũng không hiếm gì những kẻ sinh lòng ghen ghét.
Một hôm, trong một bữa tiệc đãi các quan khách, giữa lúc mọi người không ngớt lời xưng tụng mình, Mai An Tiêm nhún nhường bảo họ:
- Có gì đâu! Tất cả mọi thứ trong nhà này đều là vật tiền thân của tôi cả!
Mai nói rất tự nhiên. Bởi vì tôn giáo xứ sở chàng bảo rằng cái sướng cái khổ hiện tại là kết quả của sự ăn ở tốt hay xấu của tiền kiếp. Nhưng trong số người dự tiệc có mấy viên quan hầu gần vua, vốn ghét chàng từ lâu. Chụp lấy câu nói mà họ cho là ngạo mạn đó, họ bèn vội vàng về tâu cho vua biết.
Vua Hùng nghe nói vô cùng giận dữ. Vua gầm lên:
- Chà! Thằng láo! Hôm nay nó nói thế, ngày mai nó còn tuôn ra những lời bất kính đến đâu. Quân nô lệ phản trắc! Giam cổ nó lại cho ta!
Buổi chiều hôm ấy, Mai bị bắt bỏ vào ngục tối. Bấy giờ chàng mới hiểu chàng lỡ lời. Mai tự bảo:
- "Nếu từ nay trở đi ta bị đày đọa là vì kiếp trước ta đã cư xử không phải".
Ảnh minh họa
Trong khi đó thì ở triều, các quan họp bàn để xử án Mai. Nhiều người đề nghị xử tử. Có người đề nghị cắt gót chân. Nhưng lời tâu của một ông quan già làm cho Hùng Vương chú ý:
- Hắn bị tội chết là đúng. Nhưng trước khi hắn chết ta nên bắt hắn phải nhận ra một cách thấm thía rằng những của cải của hắn đây là do ơn trời biển của bệ hạ chứ chả phải là vật tiền thân nào cả. Tôi nghe ngoài cửa Nga-sơn có một hòn đảo. Cho hắn ra đấy với một hai tháng lương để hắn ngồi ngẫm nghĩ về "vật tiền thân" của hắn trước khi tắt thở.
Vua Hùng gật đầu chấp thuận. Nhưng sau khi ra lệnh, vua còn dặn:
- "Cho hắn lương vừa đủ dùng trong một mùa, nghe không".
*
Hôm đi đày, tuy ai nấy hết lời can ngăn nhưng vợ Mai An Tiêm vẫn nhất quyết theo chồng ra hải đảo. Nàng bồng cả con trai đi theo. Tất cả mọi người đều cho là việc rồ dại. Còn nàng thì tin ở lời chồng:
- "Trời sinh voi trời sinh cỏ. Lo gì!".
Nhưng khi bước chân lên bãi cát hoang vu mịt mù, người thiếu phụ đó cũng không ngăn nổi cảm giác tủi thân, nức nở gục vào vai chồng:
- Chúng ta đành chết mất ở đây thôi.
Mai ôm con, bảo vợ:
- Trời luôn luôn có con mắt. Cứ phấn chấn lên. Đừng lo!
Hơn một tháng đầu, đời sống của vợ chồng đã tạm ổn. Nhà ở thì chui trong hốc đá đã được đan phên che sương gió. Nước uống thì đá có suối. Muối không có thì đã có nước biển. Nhưng còn việc kéo dài sự sống? Hai vợ chồng nhìn vào bồ gạo đã vơi:
- "Nếu chúng ta có được một nắm hạt giống thì quyết không lo ngại gì cả".
Tự nhiên, một hôm có một đàn chim lớn bay từ phương Tây lại, đậu đen ngòm cả một bãi cát. Rồi chúng bay đến trước mặt hai vợ chồng kêu váng cả lên, thả xuống năm sáu hạt. Ít lâu sau từ những hạt ấy mọc ra một loại cây dây bò lan xanh um cả bãi. Dây bò đến đâu, những quả xanh non mơn mởn nhú ra đến đấy. Ít lâu sau nữa, vợ chồng ra xem thì quả nào quả ấy đã lớn lên như thổi, da xanh mượt, tròn to bằng đầu người. Mai trẩy một quả, bổ ra thấy ruột đỏ hồng, hạt đen nhánh. Vợ chồng con cái cùng nếm thấy vị thanh thanh dịu ngọt. Càng ăn càng mát đến ruột gan. Mai reo lên:
- Ồ! đây là thứ dưa lạ, chưa từng thấy bao giờ. Hãy gọi nó là dưa Tây, vì thứ dưa này được bầy chim đưa từ phương Tây lại, từ đất liền ra cho chúng ta. Trời nuôi sống chúng ta rồi!
Từ hôm đó hai vợ chồng cố trồng thêm cho thật nhiều dưa. Họ trù tính ăn dưa thay cơm để đỡ phải dùng số gạo đã gần kiệt.
Một hôm vợ chồng Mai bắt gặp một chiếc thuyền đánh cá đi lạc ra đảo. Sau khi giúp họ sửa buồm lái để trở về đất liền, Mai còn đưa biếu một số dưa để họ đưa về cho mọi người nếm thử. Mai bảo họ chở gạo ra đổi lấy dưa. Chỉ cách mấy ngày, con thuyền thứ nhất đã đến cắm neo ở bến, chở ra cho hai vợ chồng khá nhiều gạo. Hai bên y ước: một bên nhận lấy số gạo còn một bên xếp dưa xuống thuyền.
Từ đó trở đi, bữa ăn của họ đã khác trước. Ngồi bên nồi cơm trắng hơi lên nghi ngút, vợ Mai ôm lấy con, lẩm bẩm:
- "Trời nuôi sống chúng ta thực!" Cũng từ hôm đó, vợ chồng trồng thêm nhiều dưa nữa. Kết quả là thuyền buôn có, thuyền chài có, lũ lượt ra đỗ ở hải đảo đưa gạo, áo quần, gà lợn, dao búa, lại có cả các thứ hạt giống khác, để đổi lấy dưa.
Những người trong thuyền nói với Mai:
- Thật quả từ xưa chưa hề có loại dưa nào quý đến thế. Ở vùng chúng tôi ai cũng ao ước được nếm một miếng thứ "dưa hấu" này dù phải đổi bao nhiêu gạo cũng không tiếc.
Ngày ấy người ta tranh nhau mua dưa lấy giống cho nên chỉ trong vài ba năm giống dưa lan tràn khắp nơi. Tên tuổi vợ chồng Mai An Tiêm được truyền đi xa rộng. Dân gọi tôn là "Bố cái dưa Tây".
*
Lại nói chuyện vua Hùng một hôm la rầy viên quan hầu đã vì dốt nát để thợ dựng hỏng một ngôi nhà. Vua buột miệng than thở
- "Phải chi có Mai An Tiêm thì đâu đến nỗi".
Ngày hôm đó vua nhắc mãi đến chàng. Đã hai lần vua cho hỏi Lạc hầu xem hiện giờ Mai đang làm gì ở đâu.
Lạc hầu đáp liều:
- "Chắc hắn không còn nữa!".
Nhưng vua không tin. Vua sai ngay một tên nô khác cấp cho lương ăn và thuyền để hắn vào châu Ái tìm Mai An Tiêm. Một tháng sau, hắn ta mang về cho vua một thuyền đầy dưa Tây và nói:
- Đây là lễ vật của ông bà Mai dâng bệ hạ.
Hắn kể cho vua biết rõ những ngày tân khổ và tình trạng hiện nay của hai vợ chồng Mai. Rồi hắn tâu tiếp:
- Bây giờ ông bà Mai đã có nhà cửa ở ngoài ấy khá đẹp, có đến hơn mười người hầu hạ, có bãi dưa, có ruộng lúa và rất nhiều lợn gà...
Vua Hùng càng nghe càng sửng sốt. Vua chắt lưỡi bảo mấy viên quan hầu cận ngày nọ đã tố cáo Mai:
- Hắn bảo là vật tiền thân của hắn, thật đúng chứ không sai!
Vua bèn sai một đoàn lính hầu đi đón hai vợ chồng về, cho Mai trở lại chức cũ. Vua lại ban cho hai người con gái hầu để an ủi chàng.
Bây giờ chỗ hải đảo, người ta còn gọi là bãi An Tiêm. Những người kế tiếp công việc của hai vợ chồng Mai trên đảo vẫn còn dòng dõi đông đúc. Họ lập thành làng gọi là làng Mai-an. ở ngôi nhà cũ của Mai thì họ lập đền thờ hai vợ chồng chàng. Nhân dân gọi là "ông bà tổ dưa Tây.

Truyện cổ tích: Sự tích trầu cau
Ngày xưa một nhà nọ có Tân và Lang là 2 anh em ruột, đặc biệt dáng người giống nhau như đúc đến nỗi chính người nhà nhiều phen nhầm lẫn.
Cha Tân và Lang là người to cao nhất trong vùng đã từng được vua Hùng triệu về Phong Châu ban thưởng và đặt tên là Cao, từ đó gia đình lấy tiếng Cao làm họ. Hai anh em lớn lên thì cha mẹ lần lượt qua đời, cả anh lẫn em quyến luyến nhau không rời nửa bước. Người cha trước khi mất có gửi gắm Tân cho một đạo sĩ học Lưu nhưng khi Tân đến theo học thì Lang không chịu ở nhà một mình, chàng cũng cố xin cùng học với anh một thể.
Nhà họ Lưu có một cô con gái cùng tuổi với họ. Để tìm hiểu xem người nào là anh, người nào là em, nàng bày ra một mẹo nhỏ. Giữa lúc họ đang đói, nàng chỉ dọn cho họ một bát cháo với một đôi đũa. Đứng sau khe vách nàng thấy người này nhường cháo cho người kia ăn, nàng lẩm bẩm “À, ra anh chàng vui tính kia là anh”. Từ đó, giữa Tân và cô gái có nhiều cuộc gặp gỡ, tình yêu giữa 2 người ngày một khăng khít.
Sự tích Trầu Cau là truyện cổ tích đặc sắc trong kho tàng truyện dân gian Việt Nam
Thấy thế đạo sĩ họ Lưu vui lòng gả con gái cho Tân. Sau khi cưới, 2 vợ chồng đến ở một ngôi nhà mới, có Lang ở chung với vợ.
Từ khi người anh có vợ thì thương yêu giữa hai anh em không được thắm thiết nữa. Người em rất là buồn, nhưng người anh vô tình không để ý đến.
Một hôm hai anh em cùng lên nương, tối mịt mới về, người em vào nhà trước; chàng vừa bước chân qua ngưỡng cửa thì người chị dâu ở trong buồng chạy ra lầm chàng là chồng mình, vội ôm chầm lấy. Người em liền kêu lên, cả hai đều xấu hổ. Giữa lúc ấy, người anh cũng bước vào nhà. Từ đấy người anh nghi em có tình ý với vợ mình, càng hững hờ với em hơn trước.
Một buổi chiều, anh chị đều đi vắng cả, người em ngồi một mình nhìn ra khu rừng xa xa, cảm thấy cô quạnh, lại càng buồn tủi, vùng đứng dậy ra đi.
Chàng đi, đi mãi cho đến khu rừng phía trước mặt, rồi theo đường mòn đi thẳng vào rừng âm u. Trời bắt đầu tối, trăng đã lên, mà chàng vẫn cứ đi. Đi đến một con suối rộng nước sâu và xanh biếc, chàng không lội qua được, đành ngồi nghỉ bên bờ. Chàng khóc thổn thức, tiếng suối reo và cứ reo, át cả tiếng khóc của chàng. Đêm mỗi lúc một khuya, sương xuống mỗi lúc một nhiều, sương lạnh thấm dần vào da thịt chàng, chàng chết mà vẫn ngồi trơ trơ, biến thành một tảng đá.
Người anh cùng vợ về nhà, không thấy em đâu, lẳng lặng đi tìm, không nói cho vợ biết. Theo con đường mòn vào rừng, chàng đi mãi, đi mãi, và sau cùng đến con suối xanh biếc đang chảy cuồn cuộn dưới ánh trăng và không thể lội qua được, đành ngồi bên bờ suối, tựa mình vào một tảng đá. Chàng có ngờ đâu chính tảng đá là em mình! Sương vẫn xuống đều, sương lạnh rơi lã chã từ cành lá xuống. Chàng rầu rĩ khóc than hồi lâu, ngất đi và chết cứng, biến thành một cây không cành, mọc thẳng bên tảng đá.
Người anh nghi em có tình ý với vợ mình, càng hững hờ với em hơn trước.
Ở nhà, vợ không thấy chồng đâu, vội đi tìm và cũng theo con đường mòn đi vào rừng thẳm. Nàng đi mãi, bước thấp bước cao, rồi cuối cùng gặp con suối nước sâu và xanh biếc. Nàng không còn đi được nữa. Nàng ngồi tựa vào gốc cây không cành mọc bên tảng đá, vật mình than khóc. Nàng có ngờ đâu nàng đã ngồi tựa vào chồng mình và sát đó là em chồng. Nàng than khóc, nhưng tiếng suối to hơn cả tiếng than khóc của nàng. Đêm đã ngả dần về sáng, sương xuống càng nhiều, mù mịt cả núi rừng, nàng vật vã khóc than. Chưa đầy nửa đêm mà nàng đã mình gầy xác ve, thân mình dài lêu nghêu, biến thành một cây leo quấn chặt lấy cây không cành mọc bên tảng đá.
Về sau chuyện ấy đến tai mọi người, ai nấy đều thương xót. Một hôm, vua Hùng đi qua chỗ ấy, nhân dân đem chuyện ba người kể lại cho vua nghe và đến xem. Vua bảo thử lấy lá cây leo và lấy quả ở cái cây không cành nghiền với nhau xem sao, thì thấy mùi vị cay cay. Nhai thử, thấy thơm ngon và nhổ nước vào tảng đá thì thấy bãi nước biến dần ra sắc đỏ. Nhân dân gọi cái cây mọc thẳng kia là cây cau, cây dây leo kia là cây trầu, lại lấy tảng đá ở bên đem về nung cho xốp để ăn với trầu cau, cho miệng thơm, môi đỏ.
Tình duyên của ba người tuy đã chết mà vẫn keo sơn, thắm thiết, cho nên trong mọi sự gặp gỡ của người Việt Nam, miếng trầu bao giờ cũng là đầu câu chuyện, để bắt đầu mối lương duyên, và khi có lễ nhỏ, lễ lớn, cưới xin, hội hè, tục ăn trầu đã trở nên tục cố hữu của dân tộc Việt Nam.

Giới thiệu sách lần 7
Ngày 25 tháng 12 năm 2019
A. TÊN SÁCH: SÁCH THAM KHẢO TIẾNG ANH DÀNH CHO HỌC SINH TIỂU HỌC
B. TÓM TẮT NỘI DUNG BÀI GIỚI THIỆU:
1. Phần mở đầu:
Chúng ta đang sống, học tập trong thời đại xã hội Công nghệ, hội nhập và ngày càng phát triển. Để tự tin, vững bước trong thời đại xã hội này các em cần trang bị cho minh đầy đủ kiến thức về tất cả mọi lĩnh vực ngay từ bây giờ. Và ở trường TH, ngoài các môn học quan trọng như Toán, Tiếng Việt thì Tiếng Anh trở thành môn học cần thiết, đồng hành cùng các em ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường. Hiểu được điều đó, nên đến với buổi giới thiệu sách hôm nay, thư viện trường Tiểu học Thanh Thủy xin giới thiệu đến thầy cô và các em một số tài liệu Tiếng anh tham khảo dành cho học sinh TH rất quan trọng và phù hợp với học sinh Tiểu học.
2. Phần nội dung:
Khi nhắc tới tiếng Anh, người ta nghĩ ngay đó là ngôn ngữ toàn cầu: là ngôn ngữ chính thức của hơn 53 quốc gia và vùng lãnh thổ, là ngôn ngữ chính thức của EU và là ngôn ngữ thứ 3 được nhiều người sử dụng nhất chỉ sau tiếng Trung Quốc và Tõy Ban Nha (cỏc em cần chỳ ý là Trung quốc có số dân hơn 1 tỷ người). Các sự kiện quốc tế, các tổ chức toàn cầu,… cũng mặc định coi tiếng Anh là ngôn ngữ giao tiếp.
Ngoài ra, tiếng Anh được hơn 400 triệu người trên toàn thế giới dùng làm tiếng mẹ đẻ, hơn 1 tỷ người dùng tiếng Anh là ngụn ngữ thứ hai (theo Wikipedia), những quốc gia phát triển có thu nhập đầu người cao nhất trên thế giới đều sử dụng thành thạo tiếng Anh, hoặc được sử dụng phổ biến, được dạy là môn học trong nhà trường…
Đối với Việt Nam, một nước đang đứng trước thời đại phát triển, mở rộng ra với cánh cửa toàn cầu hoá, thỡ Tiếng anh lại càng quan trọng và cần thiết với tất cả chỳng ta. Như vậy, các em đó thấy tầm quan trọng của mụn tiếng Anh đặc biệt với các em những thế hệ tương lai của đất nước, việc học tiếng Anh lại càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết
Các em ạ !
Ngữ pháp Tiếng anh cũng phong phú, đa dạng trong đó cách sử dụng danh từ là một phần quan trọng trong tiếng Anh, vì nó liên quan đến nhiều từ loại khác như động từ, tính từ. Tuy nhiên có nhiều em khi học ngữ pháp tiếng Anh thường quan tâm đến động từ nhiều hơn và coi danh từ như một phần ngữ pháp nhỏ. Chắc chắn là do các em chưa tìm hiểu hết về danh từ cũng như chức năng của nó trong câu và nó liên quan đến cả chia động từ như thế nào.
Để giúp các em tìm hiểu kỹ hơn về ngữ pháp Tiếng Anh, sau đây cô xin giới thiệu đến các em cuốn sách “ Ngữ pháp và giao tiếp Tiếng anh dành cho học sinh Tiểu học do Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội phát hành và "Cẩm nang sử dụng danh từ trong tiếng anh" do Nhà xuất bản Thanh Hóa phát hành.
Cuốn sách thứ nhất sẽ giúp các em nắm được các mẫu câu giao tiếp Tiếng Anh cơ bản và các cấu trúc ngữ pháp quan trọng được trình bày đơn giản, dễ hiểu, nội dung phong phú, phù hợp trình độ học sinh TH
Cuốn sách thứ 2 này bao gồm những vấn đề liên quan đến danh từ và có những phần thực hành thú vị giúp các em nắm rõ hơn về cách sử dụng danh từ. Thú vị hơn là bảng 500 danh từ thông dụng với đầy đủ nghĩa và phiên âm bổ sung cho vốn từ vựng của các em. Cuốn sách chỉ vẻn vẹn 110 trang, khổ sách gọn nhẹ 14cm rất thuận tiện để các em mang theo bên mình tham khảo bất cứ thời gian nào.
Hiện tại thư viện trường ta có gần 100 đầu sách tham khảo các loại về môn Tiếng anh như: Tự luyện Olympic Tiếng Anh từ lớp 3- lớp 5; Từ điển Anh Việt, Đẹp nét chữ giỏi Tiếng anh, Bài tập bổ trợ Tiếng Anh, Học Tiếng Anh qua hình ảnh….
3. Phần kết thúc:
Những cuốn sách thư viện trường giới thiệu hôm nay hy vọng sẽ giúp ít cho các em rất nhiều trong học tập. Ngay từ bây giờ các em cần chăm chỉ rèn luyện, học Tiếng Anh vì đó là môn học bắt buộc trên ghế nhà trường từ những năm tiểu học. Chúc các em thành công trong học tập đặc biệt là môn Tiếng Anh nhé.
Hẹn gặp lại các em trong buổi điểm sách lần sau.
Người giới thiệu: Đặng Thị Diệp Muội

Giới thiệu sách lần 6
Ngày 3 tháng 12 năm 2019
A. TÊN SÁCH: CON GÁI NGƯỜI LÍNH ĐẢO
Nhiều tác giả
B. TÓM TẮT NỘI DUNG BÀI GIỚI THIỆU:
1. Phần mở đầu:
Trong tháng 12 này, nhân dân cả nước và đặc biệt là lực lượng quân đội NDVN tưng bừng kỉ niệm ngày toàn quốc kháng chiến, Ngày Quốc phòng toàn dân và ngày thành lập quân đội nhân dân Việt Nam.
Cách đây vài chục năm, tại khu rừng Trần Hưng Đạo, thuộc tỉnh Cao Bằng, đồng chí Võ Nguyên Giáp được Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh ủy nhiệm thành lập quân Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, gồm 34 người, tiền thân của lực lượng QĐNDVN bây giờ. Trải qua 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, lực lượng QĐNDVN là nòng cốt của 2 cuộc kháng chiến đã kề vai sát cánh với nhân dân cả nước vượt qua mọi khó khăn gian khổ, vượt qua bao hy sinh xương máu để giành độc lập, tự do cho đất nước, để cả nước tưng bừng trong ngày giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước 20-4-1975.
Các em biết đấy: Trong 2 cuôc kháng chiến đó, các chiến sĩ đã dũng cảm trong chiến đấu, không ngại khó khăn gian khổ, hi sinh một phần xương máu, thậm chí cả tính mạng của mình cho Tổ quốc, cho nhận dân. Chúng ta nghiêng mình kính phục họ. Vậy những người con của họ đã sống và học tập như thế nào? Hôm nay cô xin trân trọng giới thiệu với các em cuốn sách “Con gái người lính đảo”. Sách dày 175 trang, khổ 11 x 18cm, gồm nhiều tác giả sáng tác, được NXB Giáo Dục in năm 2002.
2. Phần nội dung:
Đây là cuốn chuyện tập hơn nhiều chuyện ngắn có ý nghĩa giáo dục đạo đức cho thiếu niên nhi đồng. Đặc biệt trong cuốn sách có rất nhiều chuyện ngắn viết về con em những người lính đã và đang cầm súng bảo vệ Tổ quốc.
Cuốn sách có 30 chuyện ngắn của các tác giả khác nhau. Mỗi câu chuyện là một suy nghĩ, một bài học nhẹ nhàng cho lứa tuổi các em.
Với câu chuyện “Chiếc quạt nam” - trang 5, tác giả Trịnh Kim Thanh đã giúp chúng ta quay về với năm 1972, năm giặc Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc. Tại bãi giữa sông Hồng có hai cô bạn chơi rất thân với nhau. Trinh - cô bạn gái xinh xắn và hiền lành có bố đi bộ đội.
Hai bạn thường chơi với nhau cả ngày và cùng trông em bé để bố mẹ yên tâm công tác. Một lần, trong một trận máy bay Mỹ ném bom Hà Nội, mẹ Trinh cùng mọi người chui xuống hầm. Bé Cún- em của Trinh khóc thét vì trong hầm tối và nóng. Thương em, Trinh đã chui vội ra khỏi hầm để vào nhà lấy chiếc quạt nan để quạt cho em. Nhưng rồi em đã ra đi mãi mãi chỉ vì muốn mang một chút gió mát cho mọi người. Mọi người vô cùng thương tiếc em, người con hiếu thảo và ngoan ngoãn.
Câu chuyện “Trở về” của tác giả Nguyễn An Thanh kể về một người cha đi bộ đội bị trúng chất độc màu da cam, người con phải chứng kiến sự đau đớn của cha trong những ngày cuối đời. Đã ân hận vì không tha thứ lỗi lầm cũ của cha. Khi em hối hận thì cha đã không còn nữa.
Câu chuyện “Khi có mẹ là anh hùng” - trang 110 của tác giả ánh Tuyết. Cậu bé Hùng là con của một nữ anh hùng đã dũng cảm ôm bom vào khách sạn 5 sao để diệt lính Mỹ. Cậu nghi ngờ vì thấy mẹ hiền khô, luôn nhẹ nhàng với mọi người. Cậu cứ nghĩ rằng mẹ không phải là anh hùng. Sau một trận đánh nhau với mấy học sinh lớp 6 lớn hơn, được mẹ giảng giải cậu đã hiểu thế nào là anh hùng và ngày càng khâm phục mẹ hơn.
Câu chuyện “Con gái người lính đảo” - trang 122 của tác giả Phạm Huy Định. Bố Nhâm là một người lính đảo xa, mẹ mất khi Nhâm còn nhỏ. Vượt qua đau thương mất mát, Nhâm đã cố gắng học hành giỏi giang để cho bố yên tâm công tác. Khi đã lớn hơn Nhâm đã hiểu hơn suy nghĩ và tình cảm của bố, em đã giới thiệu cho bố làm quen với cô Thủy, người bạn thân của mẹ ngày trước để 2 người làm quen với nhau, để bố thêm vui trong những chuyến thăm nhà.
3. Phần kết thúc:
Trong cuốn sách còn có rất nhiều câu chuyện cảm động khác nữa mà các tác giả đã dùng giọng văn nhẹ nhàng, dễ hiểu để chuyển đến cho các em những tình cảm, những suy nghĩ của lứa tuổi học sinh, giúp các em trưởng thành hơn trong cuộc sống.
Mỗi truyện ngắn như một bức ảnh chụp lại một mảnh của hiện thực cuộc sống, hoặc một lát cắt tâm trạng của một con người. Mỗi trang viết là một dòng tâm sự sâu sắc. Các tác phẩm được chọn trong tập truyện ngắn này đều được viết dưới dạng hình thức nghệ thuật nhuần nhuyễn.
Vì thế ý nghĩa tư tưởng tác phẩm dễ dàng thấm sâu vào lòng người. Nhiều câu truyện cảm động không chỉ có tác dụng cảm hoá, nuôi dưỡng tâm hồn non trẻ nói chung và đặc biệt của thế hệ học sinh chúng ta khi còn đang ngồi trên ghế nhà trường.
Hy vọng cuốn sách sẽ đem lại cho các bạn những bài học nhân vân sâu sắc để chắp cánh cho tâm hồn và ước mơ của mình bay cao và bay xa.
Người giới thiệu: Đặng Thị Diệp Muội

Giới thiệu sách lần 5
Ngày 25 tháng 11 năm 2019
A. Tên sách: CÂY TRE TRĂM ĐỐT
Sưu tầm: Hoàng Khắc Huyên
B. Tóm tắt nội dung bài giới thiệu:
1. Phần mở đầu:
Chúng ta lớn lên từ những câu hát ru à ơi của bà, của mẹ. Từ những câu chuyện, những bài thơ, những câu hò, câu vè thuở thời cắp sách. Và chắc hẳn rằng, trong tuổi thơ của tất cả chúng ta đều gắn liền với truyện cổ tích, với câu mở màn: Ngày xửa, ngày xưa. Truyện cổ tích Việt Nam là một phần của Văn học dân gian Việt Nam, mỗi câu chuyện là mỗi phép màu kì diệu, ẩn chứa biết bao điều thú vị, biết bao nhiêu thông điệp của cuộc sống, và đặc biệt, truyện cổ tích bao giờ cũng kết thúc có hậu, bởi vậy dân gian ta thường nói: cứ như cổ tích, đúng là cổ tích.Các bạn đã từng nghe câu thần chú: Khắc xuất, khắc xuất! Khắc nhập, khắc nhập chưa? Đó là câu thần chú trong truyện “Cây tre trăm đốt”.
2. Phần nội dung:
Câu chuyện Cây tre trăm đốt vẫn theo một mô típ quen thuộc: Chàng trai nghèo đi làm thuê cho phú ông giàu có. Để lấy được cô con gái nết na của phú ông, anh bị thách cưới bằng một cây tre trăm đốt. Nhưng trên đời làm gì có cây tre như vậy? Làm thế nào anh lấy được vợ và có một cuộc sống hạnh phúc?
Câu chuyện xoay quanh lời hứa gả con gái cho anh đầy tớ nghèo của lão phú ông, cùng những tráo trở, lật lọng với thách thức tìm cây tre trăm đốt. Liệu có cây tre trăm đốt hay không, và anh đầy tớ phải làm gì? Lão phú ông là đại diện cho cái xấu còn tồn đọng đâu đó trong xã hội ngày nay. Chúng ta cũng bắt gặp không ít người dù biết là xấu nhưng vẫn hùa theo ủng hộ và hắt hủi những con người lương thiện. Người Việt có câu “Gieo nhân nào gặp quả nấy”. Nếu chúng ta đứng về lẽ phải, làm điều thiện, luôn nhẫn nại vươn lên thì điều chờ đợi chính là hạnh phúc. Ngược lại, khi chúng ta chọn cái xấu ác hay đứng sang ủng hộ cho những điều không đúng mà làm hại người lương thiện thì chúng ta sẽ nhận lại sự bất hạnh trong tương lai của chính mình. Tuy vậy, trong đoạn kết câu chuyện, anh Khoai vẫn đọc câu thần chú “khắc xuất, khắc xuất” để giải phóng những kẻ xấu bị treo trên cây tre trăm đốt sau khi họ đã tỏ ra hối cải. Lúc nào cũng vậy, vẫn luôn có một lựa chọn mang tính thiện giải cho mọi sự việc. Nhưng điều này cũng chỉ có thể xảy đến cho những ai biết ăn năn hối cải trước khi quá muộn.
3. Phần kết thúc:
Câu truyện trên đã có một kết thúc tốt đẹp. Người lương thiện sẽ nhận lại được phúc báo sau khi trải qua nhiều khổ nạn. Kẻ ác tâm cuối cùng phải gánh hậu quả do chính hắn gây ra. Hy vọng rằng, các bạn sẽ thích câu chuyện này, cũng như hiểu được ý nghĩa nhân văn trong truyện, nếu thích hãy giới thiệu cho mọi người cùng đọc.
Người giới thiệu: Đặng Thị Diệp Muội

Giới thiệu sách lần 3
Ngày 28 tháng 10 năm 2109
A.Tên sách: “SỐNG MÃI MỘT HUYỀN THOẠI: ẤN PHẨM ĐẶC BIỆT VỀ ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP”
B. Tóm tắt nội dung bài giới thiệu:
1. Phần mở đầu:
Hòa chung với không khí thiêng liêng của đất nước Chào mừng ngày Giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước (30/4) và ngày quốc tế Lao đông (1/5). Đến với ngày hội sách Việt Nam lần thứ 4 hôm nay Thư viện trường trân trọng gửi đến thầy cô, các em và các bậc phụ huynh cuốn sách “ Sống mãi một huyền thoại: ấn phẩm đặc biệt về đại tướng Võ Nguyên Giáp”.
2. Phần nội dung:
Đại tướng Võ Nguyên Giáp sinh ngày 25.8.1911 là Người con của quê hương Lệ Thủy anh hùng một vị tướng của lòng dân. Do tuổi cao, sức yếu Đại tướng đã từ trần ngày 4.10.2013 ( tức ngày 30 tháng 8 năm Quý Tỵ). Tuy Người đã ra đi nhưng hình ảnh về một vị Đại tướng, Người anh cả của Quân đội nhân dân Việt Nam vẫn luôn động mãi trong lòng người dân và bạn bè Quốc tế.
Tên tuổi và sự nghiệp của Đại tướng Võ Nguyên Giáp lâu nay đã trở thành một huyền thoại; là sự ngưỡng mộ, kính yêu của biết bao nhiêu con người. Ông là một trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại một nhà chiến lược, một chỉ huy quân sự lỗi lạc. Báo chí nước ngoài đã ca ngợi ông như một nhân vật lẫy lừng “làm thay đổi cục diện của châu lục”, một trong những danh tướng của thế kỷ XX…
" Sống mãi một huyền thoại" là ấn phẩm đặc biệt mà Báo Lao động phát hành dành tặng bạn đọc qua đó thể hiện tình cảm lớn lao của các thế hệ làm báo dành cho Đại tướng. Trên nền bìa sách là hình ảnh Đại tướng trong bộ trang phục màu xanh - màu áo quân đội, rất bình dị và gần gũi với nụ cười đôn hậu, vầng trán rộng, đôi mắt sâu thăm thẳm...
Lật từng trang, từng trang cuốn sách, càng đọc chúng ta càng thấy được sự vĩ đại, nhân cách sống cao đẹp, nhân văn của Người, ta càng cảm nhận được tình cảm mà nhân dân Việt Nam, bạn bè Quốc tế dành cho Người trước, trong và sau khi Người ra đi. Ngoài lời tòa soạn, thông cáo từ trần và tiểu sử tóm tắt thì cuốn sách 3 phần chính:
Phần 1:Vĩnh biệt người anh hùng
Phần 2: Thiên tài quân sự
Phần 3: Vị tướng của nhân dân
Tất cả được ấn phẩm ghi chép lại rất cụ thể, cô động mà thấm đẫm tình người. Hướng tới kỉ niệm Giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước (30/4), mỗi chúng ta, nhất là các em học sinh hãy ra sức phấn đấu học tập, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng đất nước giàu mạnh và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam yêu quý.
3. Phần kết thúc:
Ấn phẩm "Sống mãi một huyền thoại: là một cuốn sách thật ý nghĩa, một tư liệu quý giá về Đại tướng Võ Nguyên Giáp mà thư viện trường Tiểu học Thanh Thủy muốn gửi đến thầy cô cùng các em học sinh và các bậc phụ huynh trong ngày hội sách Việt Nam hôm nay . Hi vọng Thầy cô cùng các em học sinh và các bậc phụ huynh sẽ tìm đọc để hiểu thêm lịch sử kháng chiến của dân tộc ta và tự hào với mảnh đất Lệ Thủy - Quảng Bình nơi đã sinh ra một vị tướng tài của thế giới đó là Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Thư viện luôn mở của đón chào các thầy cô giáo và các em học sinh!
Người giới thiệu: Đặng Thị Diệp Muội

Giới thiệu sách lần 2
Ngày 7 tháng 10 năm 2019
A. Tên sách: TẤM CÁM
Sưu tầm: Nguyễn Thị Hòa
B. Tóm tắt nội dung bài giới thiệu:
1. Phần mở đầu:
Từ ngày còn nhỏ, chúng ta đã được nghe biết bao câu chuyện cổ tích qua giọng kể của bà, của mẹ. Từ những lâu đài của nàng công chúa và hoàng tử, cho đến cánh rừng rậm rạp nơi mụ phù thủy cư ngụ, vẻ đẹp hiền từ của Ông Bụt, Bà Tiên…, tất cả đã trở thành một phần không không thể thiếu trong ký ức tuổi thơ. Đã bao năm tháng trôi qua, những câu chuyện dân gian ấy vẫn còn nguyên sức hút, tuy giản dị, nhẹ nhàng mà gửi gắm bao lời răn dạy vô cùng trân quý của cha ông. Hôm nay với mong muốn đem tới cho độc giả nguồn cảm hứng hơi dậy thiện niệm, đạo đức con người cùng niềm tự hào dân tộc với lời nhắn nhủ: Hãy tự tin mang tinh hoa đất Việt vươn ra thế giới qua câu chuyện Tấm Cám.
2. Phần nội dung:
Câu truyện kể lại cuộc đấu tranh gay gắt giữa hai lực lượng đối lập, nhưng truyện lại giàu chất thơ cổ tích, đậm đà màu sắc dân gian, như đưa ta về với một làng quê nào đó với việc chăn trâu cắt cỏ, bắt tôm bắt tép, con bống, con gà, cái yếm đỏ; miếng trầu têm cánh phượng, và nhất là cảnh hội làng đông vui tấp nập, quả thị vàng thơm và quán hàng nước... Truyện sử dụng thành công nhiều môtíp nghệ thuật dân gian như môtíp ông Bụt hóa phép, vật xấu biến thành vật đẹp (xương cá hóa thành quần áo, giày, ngựa), vật giúp người (chim sẻ nhặt thóc), vật để nhận ra nhau (trầu têm cánh phượng) và đặc biệt là ướm giày phổ biến trong cổ tích thế giới. Nó được thể hiện qua các hình ảnh sau:
“ Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Bố mẹ Tấm chết sớm, Tấm phải ở với mụ dì ghẻ ác nghiệt. Hàng ngày Tấm phải làm lụng vất vả không khác gì đứa ở, còn Cám thì được mẹ nuông chiều, ăn trắng mặc trơn, ở nhà dì ghẻ, Tấm bị mụ hành hạ đủ điều, bị con Cám ranh ma lừa lọc, Tấm chỉ còn biết khóc. Bụt đã hiện lên nhiều lần để an ủi và giúp đỡ Tấm. Vừa mở hội. Mụ dì ghẻ bắt Tấm ở nhà nhặt thóc, không cho đi xem hội. Nhờ Bụt giúp, cuối cùng Tấm cũng được đi hội với quần áo đẹp và một đôi giày thêu xinh xắn. Đôi giày đó đã đổi đời Tấm, đưa Tấm về cung vua để trở thành hoàng hậu. Thấy Tấm sung sướng, mẹ con Cám càng ghen ghét và mụ dì ghẻ càng quyết tâm giết Tấm cho kì được. Tấm đã hóa kiếp liên tiếp từ chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửi, đến quả thị và cuối cùng lại trở về với kiếp người, ở nhà bà lão hàng nước, Tấm gặp lại vua và về hoàng cung sống cuộc đời của mình”.
Truyện có nhiều câu văn vần xen kẽ tô đậm thêm nét dân gian: “Bống bống bang bang..., Vàng ảnh vàng anh..:, Kẽo cà kẽo kẹt”. Và bao trùm lên tất cả, truyện đã xây dựng nên một hình tượng cô Tấm thật đáng yêu, hiền lành, xinh đẹp, có sự chuyển biến qua hai giai đoạn: từ yêu đuối, thụ động đến kiên quyết đấu tranh giành lại sự sống và hạnh phúc cho mình.
3. Phần kết thúc:
Chủ đề của Tấm Cám nằm trong chủ đề chung của nhiều truyện cổ tích ở nước ta: chính thắng gian tà. Truyện phản ánh cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa thiện và ác, giữa người bị áp bức và kẻ áp bức. Cuộc đấu tranh đó phát triển từ thấp đến cao, đến mức quyết liệt, một mất một còn, không thể hòa hoãn. Và con người bị áp bức đã phải hóa kiếp nhiều lần để tồn tại, để khẳng định sức sống của mình. Sự hóa kiếp liên tiếp của Tấm thế hiện sức trỗi dậy mãnh liệt của con người trước sự vùi dập của cái ác. Đây là sức mạnh của thiện thắng ác, của chính nghĩa thắng gian tà, nói lên ước mơ bao đời của nhân dân ta được gửi vào cổ tích.
Người giới thiệu: Đặng Thị Diệp Muội

Giới thiệu sách lần 1
Ngày 16 tháng 9 năm 2109
A. Tên sách: SƠN TINH - THỦY TINH
Sưu tầm: Hoàng Khắc Huyên
B. Tóm tắt nội dung bài giới thiệu:
1. Phần mở đầu:
Chắc hẳn ai trong chúng ta đều giữ trong mình những truyền thuyết như : Bánh chưng , bánh giầy , con rồng cháu tiên ,...…. Nhưng ai trong chúng ta không có thể quên được truyền thuyết : " Sơn Tinh Thủy Tinh " với những trận tranh tài hết sức gay cấn và đầy quyết liệt. Thông qua câu chuyện này , ông cha chúng ta giải thích cho con cháu về hiện tượng thiên tai , lũ lụt thường xảy ra trong năm .
2. Phần nội dung:
Truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh truyền thuyết của dân gian xưa kể về những hiện tượng thiên nhiên, thiên tai xảy ra trong cuộc sống. Truyện xoay quanh hai nhân vật chính là Sơn Tinh, Thủy Tinh tranh giành Mỵ Nương về làm vợ. Trong cuộc giao chiến tranh giành vợ với Sơn Tinh đó có rất nhiều những yếu tố kì ảo, tưởng tượng đã xuất hiện.
Với Sơn Tinh chính là vị thần núi cai quản núi rừng, di dời những ngọn núi để ngăn cản dòng nước dâng lên. Nước lên bao nhiêu Sơn Tinh cho nâng núi lên bấy nhiêu. Đây chính là hình ảnh đại diện cho những nhân dân xưa với khát vọng cai trị thiên nhiên.
Với Thủy Tinh cai quản biển cả có khả năng hô phong hoán vũ, Thủy Tinh chính là đại diện cho hiện tượng thiên nhiên mưa bão, lũ lụt đe dọa đến tính mạng con người xảy ra hàng năm.
Truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh truyền thuyết mang nhiều yếu tố kì ảo, tưởng tượng của người xưa nhằm giải thích cho những hiện tượng thiên nhiên xưa, đồng thời thể hiện ước mơ chế ngự, chiến thắng thiên nhiên của ông cha thuở xưa.
Qua câu chuyện này , cho em biết vua đã thiên vị Sơn Tinh hơn , vì những món mà vua đưa ra đều là những món ăn quen thuộc ở đất liền , ở miền biển không hề có và cũng cho em biết được vì sao lại có lũ lụt hàng năm.
3. Phần kết thúc:
Sơn Tinh Thủy Tinh là một câu chuyện được xây dựng trí tưởng tượng của người dân Việt Nam khi xưa. Truyện mang yếu tố thần thánh, tâm linh nhằm giải thích hiện tượng lũ lụt hằng năm ở đồng bằng Bắc Bộ. Đồng thời, truyện thể hiện ước mơ chiến thắng thiên nhiên, bảo vệ cuộc sống của người xưa. Mong chúng ta cùng đón đọc câu chuyện này nhé !
Người giới thiệu: Đặng Thị Diệp Muội

Giới thiệu sách lần 4
Ngày 11 tháng 11 năm 2019
A. Tên sách: KỂ CHUYỆN NHÀ GIÁO KIỆT XUẤT CHU VĂN AN
Đinh Mạnh Thoại
B. Tóm tắt nội dung bài giới thiệu:
1. Phần mở đầu:
Hôm nay, chúng ta gặp nhau trong chương trình giới thiệu sách theo chủ đề của tháng 11.Tháng của tuổi học trò thể hiện sự tri ân với thầy cô giáo, tháng của các thầy cô giáo với bộc bạch, tâm sự và những trải nghiệm của nghề khai sáng tâm hồn trẻ. Từ những ý nghĩa ấy, thư viện trường TH Thanh Thủy xin trân trọng giới thiệu đến quý thầy cô và các em học sinh cuốn sách viết về người thầy kiệt xuất của nền giáo dục nước nhà. Đó là thầy giáo Chu Văn An.
Với tựa đề: "Kể chuyện nhà giáo kiệt xuất Chu Văn An" của Đinh Mạnh Thoại, cuốn sách đã viết về người thầy rất mẫu mực, một người thầy đáng kính Chu Văn An.
2. Phần nội dung:
Chu Văn An là nhà giáo lấy "Sự nghiệp trồng người" làm lẽ sống và ông đã theo đuổi suốt cả cuộc đời. Ông đã từng tâm niệm: “Nghề dạy học đã là lý tưởng và lẽ sống của tôi, cho nên dù bất cứ hoàn cảnh nào cũng không bao giờ bỏ dạy học”
Đến với cuốn sách chúng ta sẽ thấy được tác giả đã mô tả rất thật cuộc đời và sự nghiệp của ông - Nhà giáo Chu Văn An một cách chân thực, giản dị và không kém phần sinh động bởi tác giả đã viết nên tác phẩm bằng cả tấm lòng trân trọng của mình và dựa trên cơ sở những tư liệu xác thực về nhà giáo Chu Văn An.
Thầy Chu Văn An sinh năm 1292 và mất năm 1370, ông sinh ra trong một gia đình làm quan, có nghĩa là có quyền được đi học, được làm quan nhưng ông lại không đi theo lối mòn làm quan để hưởng vinh hoa phú quí theo truyền thống của gia tộc. Ngay từ nhỏ, ông đã có ước muốn duy nhất là được học để tiếp thu kiến thức và mở trường tại quê nhà để dạy học.
Hơn 40 năm theo đuổi nghề dạy học và cũng như suốt cả cuộc đời, ông luôn là tấm gương sáng cho lớp lớp học trò chúng ta phải ngưỡng mộ và kính trọng.
Tương truyền ông đỗ đạt rất cao đến học vị Thái học sinh nhưng đêm này sang đêm khác ông chong đèn đọc sách, định ra bài giảng, nghiền ngẫm ý tứ để giảng cho từng đối tượng học trò cho phù hợp. Hình như trong mỗi bài giảng, ông tâm nguyện: “...mình phải như con tằm nhả tơ, tơ phải vàng óng, để dệt cho học trò những tấm áo kiến thức, những tâm hồn thật đẹp”. Mà cũng chỉ học ở thầy giáo Chu, học trò mới có được những diễm phúc ấy.
Hơn ai hết, là học sinh chúng ta phải hiểu: “Nghề dạy học là rất khó, khó ở cái tâm của người thầy phải luôn trong sáng, mặc cho hoàn cảnh xã hội có muôn trùng đen tối, những lời giảng của thầy cứ len lỏi trong tâm khảm học sinh như giọt mật li ti nho nhỏ, được vắt khéo từ những nhụy hoa, người thầy phải chắt lọc những kiến thức ấy, nhào nặn bằng tất cả tấm lòng và phải từ sâu thẳm trái tim mình để truyền đạt đến cho từng học trò những kiến thức đã lĩnh hội được.”
Thầy giáo Chu Văn An đã hiểu điều đó từ rất lâu, ông không bao giờ tự cho bài giảng của mình là đã đủ, đã hay. Vì thế, điều đáng quý nhất của ông là không ngừng học tập, đọc sách, nghiền ngẫm thêm nghĩa ý của sách, cho từng bài giảng ngày càng rộng mở. Ông cho rằng: “Chữ nghĩa bài giảng, đâu chỉ nhìn bằng mắt và suy nghĩ trong chốc lát mà khám phá được chiều sâu của nó, mà phải luôn tự học, luôn trau dồi, phải hiểu với cái tâm trong sáng để truyền đạt cho học trò, có như vậy học trò sẽ hấp thu với tất cả sự tin tưởng và lòng yêu kính thầy cô giáo".
Ngoài công việc dạy học, ông còn viết sách, làm thơ. Với những tác phẩm như: "Tứ thư thuyết ước", "Quốc ngữ thi tập", "Y học yếu giải",... vẫn còn lưu truyền mãi trong nhân dân ta, những tác phẩm có giá trị vô song ấy là sự tinh luyện tài tình của bộ óc uyên thâm và trái tim nồng hậu luôn cống hiến cho "Sự nghiệp trồng người", ông xứng đáng cho người đời truyền tụng: Chu Văn An là sao Bắc đẩu, là sao Khuê vẫn mãi chiếu sáng cho hậu thế.
Với thầy Chu Văn An, cái còn lại là danh thơm trong cuộc đời dạy học, là nhân cách cứng rắn trước cái xấu, là tấm lòng ngay thẳng với cuộc sống. Ông xứng đáng được thờ phụng ở Văn Miếu, mãi mãi và muôn đời là nhà giáo trong sạch, xứng đáng để tôn vinh.
3. Phần kết thúc:
Chúng ta rất vinh dự khi nghe về thầy giáo Chu Văn An, ắt hẳn trong mỗi chúng ta phải cố gắng hết sức mình để học tập, noi gương phẩm chất trong sáng, tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước của nhà giáo Chu V¨n An.
Cuốn sách rất hữu ích cho chúng ta, kính mong các thầy cô giáo và các em hãy tìm đọc để nhớ về người thầy đáng kính và cũng là để tri ân công lao dạy dỗ của các thầy cô trong Ngày Nhà giáo Việt Nam. Xin trân trọng giới thiệu.
Người giới thiệu: Đặng Thị Diệp Muội
